Thứ Ba, 28 tháng 12, 2010

CUỐI NĂM, NHỚ TRỊNH CÔNG SƠN & THÁNG NGÀY LẬN ĐẬN Tạp Bút MANG VIÊN LONG


CUỐI NĂM NHỚ
TRỊNH CÔNG SƠN,


Và Tháng Ngày Lận Đận…

Tạp Bút
Mang Viên Long


Ở quê, khi nghe tin Trịnh Công Sơn mất tại Saigon vì bệnh tiểu đường vào lúc 12 giờ 45 phút ngày 01 tháng 4 năm 2001 ( nhằm ngày mồng 8 tháng 3 Tân Tỵ) – tôi không có diều kiện vào Saigon ngay để được tiễn đưa anh lần cuối. Một năm trước, tôi cũng được bạn văn thông báo một ít tin tức về anh-nhất là về tình trạng sức khỏe ngày mỗi suy kém mà anh không giữ được sự điều độ, hay giới hạn trong sinh hoạt thường nhật. Tôi cũng được biết anh bị bệnh gan và thận khá lâu-nhưng lại mất vỉ bệnh tiểu dường.
Không vào Saigon được trong ngày làm lễ tại chùa Vĩnh Nghiêm là một niềm ân hận với tôi-nhưng tôi lại nghĩ-sẽ viết “ đôi điều về anh”-để tỏ lòng thương tiếc anh, như thắp một nén tâm hương gởi theo anh-cho lòng vơi bớt phần nào sự ân hận, băn khoăn vì nghịch cảnh hiện tại của mình!
Nghĩ là vậy-mà không viết được gì! Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình-nhà văn-thơ-nhạc sĩ lớn, thân hữu của anh mọi miền ( trong và ngoài nước ) viết khá nhiều về anh-một thiên tài âm nhạc Việt Nam-nhin chung, toàn là những bài ngợi ca tài năng anh đã cống hiến cho nền âm nhạc qua hơn 600 ca khúc trong suốt chặng đường sáng tác ( hơn 40 năm ) khởi đầu từ năm 17 tuổi ( 1956 ) với hai ca khúc “ Sương Đêm, “ , “ Sao Chiều “ và “ Ướt Mi “ ( được nhà An Phú XB năm 1959). Trong không khí “ vàng son của tài năng Trịnh Công Sơn khi đã thành danh“, tôi không thể viết “lùi lại” về chặng đời – có thể gọi là “ lận đận” của anh như tôi đã từng biết về anh những năm đầu thập niên 60.
Tôi lại tự nghĩ-viết về cái quá khứ gian khó, những tháng ngày lận đận của tài năng TCS cũng là một điều nên làm. Viết về một thiên tài-không hẳn chỉ nói đến các thành công, sự vinh quang- mà cũng cần biết đến chặng ngày truởng thành vươn lên trong gian khó của tài năng ấy. Như một kỷ niệm vui. Một bài học cần thiết để học hỏi.. Những ngày cuối năm-ngồi buồn-lại nhớ đến anh và chặng đời tuổi trẻ của mình-tôi viết những dòng tuởng nhớ này để ghi lại vài kỷ niệm một thời…
Trịnh Công Sơn đến Qui Nhơn học khóa đầu tiên của truờng Quốc Gia Sư Phạm ( khoá 1-năm 1961-1963) khi tôi còn học năm cuối của trường Trung học Cường Đễ. Cũng xin nói thêm đôi điều về ngôi trường Sư phạm đặc biệt này: Trường nhận đào tạo giáo sinh cho 14 tình miền Trung và Cao nguyên ( Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa. Phú Yên, Bình Định, Quàng Tín, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên, Quảng Trị, Kom Tum, Pleiku, Daklak, Phú Bổn). Điều kiện văn bằng chỉ cần Tú Tài một-nhưng trên thực tế-hơn 50 phần trăm đã có văn bằng Tú Tài 2. 20 phần trăm đã học qua 1, hay 2 chứng chỉ đại học. Quy định sau khi ra trường sẽ phân bổ phục vụ ở các trưởng tiểu học khu vực 14 tỉnh trong thời gian hai năm tập sự. Sau 2 năm. qua kỳ thi dành cho những người có Tú tài 2, giáo viên trúng tuyển sẽ dược nâng bậc “ giáo sư trung học đệ nhất cấp”. Khi hoàn tất đủ các chứng chỉ đại học- có văn bằng cử nhân- sẽ được nâng bậc tiếp theo “ giáo sư trung học đệ nhị cấp”. Như vậy-người có chí tiến thủ mà có hoàn cảnh khó khăn ( nhất là đang bị ” kẹt “ tuổi quân dịch) có thể vừa đi dạy để có thể tự nuôi sống lại vừa có tiền chi phí cho chuyện học tiếp theo của mình!
Vì quy chế ưu đãi mở rộng cho con đường tiến thân, và nhất là vì có thể giúp sớm giải quyết giai đoạn khí khăn truớc mắt về kinh tế và quân dịch đang là nỗi lo lớn cho tuổi trẻ thời ấy-nên trường SP Qui nhơn đã “ chiêu tập “ được nhiều giáo sinh xin thi vào. Tuyển chọn được nhiều người tài năng trong dãi đất miền Trung-Cao nguyên nghèo khó…
Tôi nghĩ-TCS tìm đến trường SP Quinhơn cũng có thể do 2 nguyên nhân chính ấy-bên cạnh mơ ước của tuổi trẻ là muốn “ bay nhảy/ thay đổi không khí” cho cuộc sống thêm phong phú để sáng tác của người nghệ sĩ như anh. Trường SP Qui Nhơn không có khoa “ Tâm lí Giáo dục Trẻ em”-như trang “ Bách Khoa Toàn Thư Mở- Wikipedia “ đã viết về TCS. Tâm lí GD chỉ là một môn học của chương trình 2 năm mà thôi.
Sau một niên khóa Sơn theo học ở trường SP / QN ( 61-62) tên anh đã được hầu hết giới sinh viên, học sinh Qui Nhơn-Bình Định biết đến như “ một thần tuợng âm nhạc”. Qua mấy lần nhà trường tổ chức những đêm trình diễn để quyên góp quỹ cứu trợ bão lụt –TCS luôn có mặt ( bên tay guitare Thanh Hải, Violon Văn Thanh, trống Quang Thùy…) với những bản tình ca “ mới rợi “ của anh. Các nữ giáo sinh cùng khóa cũng đã được Sơn tập luyện trình bày nhiều bản nhạc của TCS rất thành công ( như các bài Diễm Xưa/ Nhìn Những Mùa Thu Đi/ Nắng Thủy Tinh/ Hạ Trắng…).
Tôi dược quen thân với TCS khi anh vào học năm thứ 2 ( 62-63). Trong cái thị xã nhỏ bé ấy-đi lòng vòng vài con đường là gặp nhau-nên chúng tôi thường gặp nhau ở Hiệu sách báo Việt Long hay Đại Chúng ( lúc đó nằm trên đường Gia Long/ nay là Trần Hưng Đạo). Thình thoàng găp anh ở quán caffe Dung ( góc dường Phan Bội Châu). TCS rất giản dị-vui tính, và dễ gần. Mái tóc dài bồng bềnh , đôi kính cận dày cộm và tấm áo vest màu đà nhạt của anh lúc ấy là “ một hiện tượng lạ” cho học sinh Qui Nhơn chú ý! Một hôm trên đường đi học về nhà trọ, tôi trông thấy anh đang đứng tần ngần, ngơ ngác bên lề đường ( ngã ba Võ Tánh và Mãi Xuân Thưởng/ Hiện nay là Lê Hồng Phong- Mai Xuân Thưởng), tay còn giữ guidon xe đạp. Tôi dừng lại-chào anh, cười : “ Anh đang chờ ai vậy,anh Sơn? “. Sơn đáp-giọng bất bình :” Bọn du đảng lấy mất chiếc kính của moi rồi!”. Mất cặp kính cận rồi-TCS làm sao mà thấy đường đi ? Anh kể-chúng gồm ba bốn tên, chận xe anh lại-đưa tay gỡ cặp kính của anh-cuời: “ Cho mượn tạm chiếc kính một chút, nghe bạn? “ . Tôi không quen với đám học sinh “ cao bồi” ấy, nhưng biết mặt chúng. Hầu hết là vài hoc sinh lêu lỏng ở các trường tư thục, con nhà giàu và quyền thế. Tôi đón mấy người bạn cùng trường, nhiều người quen với số học sinh “ anh chị “ ấy-nhờ họ can thiệp vì uy tín chung của học sinh Qui Nhơn , và vì lòng yêu chuộng nhạc TCS- Khoảng một giờ sau, chiếc kính gọng đồi mồi của Sơn đã dược hoàn trả! Người đem dược kính về, đã cho biết –chúng “chọc phá/ cảnh cáo TCS chơi vậy thôi-vì TCS được lòng… yêu quý của nhiều nữ sinh..” ( ! ).
Một dịp khác, TCS gặp tôi than thở về chuyện tìm nhà trọ, nhà thuê-và ngỏ ý nhờ tôi tìm giúp.Tôi cũng không dấu anh-cho biết tôi cũng từ “ miền quê nghèo” An Nhơn lên phố trọ học-cũng rất khổ tâm trong việc tìm nhà trọ vào đầu mỗi niên khóa. Nếu có nhiều tiền, những gia đình nhận nấu cơm tháng cho ăn ở luôn cũng không thiếu-nhưng ngặt nỗi nghèo-nên việc tìm nơi ăn ở cũng rất gay. Nhưng tôi hứa, sẽ tìm giúp anh ( và 3 người bạn cùng khóa, tất cả hình như đều ở trong ban nhạc của trường SP).
Người bạn cùng lớp rất thân-ngồi bên cạnh tôi nhiều năm, có năng khiếu đàn hát, thường đi hát cho các chương trình đài phát thanh là Truờng Hạnh- nghe tôi kể lại truờng hơp tìm nhà trọ của TCS, liền đồng ý sẽ về xin “ bố “ cho TCS và 3 người bạn của anh đến trọ vì nhà khá rộng. Hôm sau Trường Hạnh vui vẻ báo tin lành. Tôi gặp ngay TCS chiều ấy-thông báo và giới thiệu cùng anh địa chỉ nhà của Hạnh ( sau lưng trường Cường Đễ cũ). Thế là TCS và 3 người bạn được “ bố “ của Hạnh nhiệt tình cho ” ở không” 1 phòng tươm tất.
Chưa được 1 tháng-Hanh báo tin ” bố “ của anh không chịu cho TCS và bạn ở đó nữa vì “ mấy ông nghệ sĩ ấy đi chơi về khuya quá, lại thường say khướt-kêu cửa làm cả nhà mất giấc ngủ!”. Tôi chỉ biết cười-vì biết rằng những người già và nghiêm tính như “ bố “ của Hạnh sẽ khó mà “quen “ được sinh hoạt bất thường của những người…nghệ sĩ trẻ!
Một kỷ niệm –có lẽ khó quên nhất với TCS, là vào một buổi sáng đầu xuân năm 63. anh đến nhà trọ tìm tôi rất sớm. Tôi thoáng ngạc nhiên-thì anh đã nói: “ Cậu đi với moi đến thăm ca sĩ Thanh Thúy nhé? “
- Anh quen à?
- Biết chứ không quen thân lắm!
- Ở đâu?
- Phòng ngủ Thuận An…
Đoàn ca nhạc mà Thanh Thúy tham gia hiện đang lưu diễn tại thị xã Qui Nhơn hai hôm nay tôi biết, nhưng không nghĩ là mình sẽ có dịp đến thăm người “ nữ ca sĩ tài danh” đang được hâm mộ đông đảo này. Tôi vui vẻ đi theo TCS…
Khi hỏi thăm người quản lý, biết dược số phòng trọ của Thanh Thúy trên tầng 2-chúng tôi lần mò lên ngay.
Đứng trước cửa phòng dang đóng-TCS gỏ cửa gọi.
Có tiếng Thanh Thúy đáp:
- Ai đó? Xin vui lòng chờ chút, Thúy đang thay đồ…
Khoảng vài phút sau-cửa mở. TCS và tôi được mời vào phòng.
- Tôi là Trịnh Công Sơn-anh tự giới thiệu- và đưa tay vào túi áo vest lấy ra mấy bản nhạc chép tay-nhờ Thanh Thúy hát cho …
Thanh Thúy cầm lấy mấy tờ nhạc-xòe ra xem-tôi thoáng thấy đó ;là bản nhạc Diễm Xưa, Nhìn Những Mùa Thu Đi và Hạ Trắng..
- Được rồi, anh Sơn để em tập đã nhé?.
Sau đó, Thanh Thúy hỏi thăm nhà bưu điện Qui Nhơn, và mời chúng tôi cùng đi bộ đến đó cho nàng gọi về nhà…
Khi đã đưa Thanh Thúy trở lại phòng ngủ Thuận An-tôi và TCS ra về. Tôi thắc mắc : “ Sao anh không cho xuất bản những bài hát hay ấy đi mà nhờ Thanh Thúy hát làm gì, cho mệt? “. TCS giải thích: “ Nhạc không như thơ văn - mà cần phải được hát, thu băng, phát thanh nhiều lần trước-nhà xuất bản họ mới “ đánh hơi “ mà xin xuất bản ! “.
- Anh tự xuất bản không được sao?-tôi hồn nhiên hỏi.
- Không được đâu cậu-anh quay lại nhìn tôi cười hiền-thứ nhất là mình không có tiền. Thứ hai, in ra ít ai biết mà mua…
Vài hôm sau-TCS đem “tặng “ tôi 2 bản nhạc “ Diễm Xưa” và “ Nhìn Những Mùa Thu Đi “ do anh chép tay trên trang vở học trò -rất đẹp! Tôi đã giữ chúng như một kỷ niệm khó quên trong đời …
Một lần khác, tình cờ gặp anh ở café Dung. Chúng tôi có dịp trò chuyện lâu. TCS có nói với tôi: “ Cậu theo moi đi! Moi sẽ dạy cậu viết nhạc? “. Biết anh thành thật-nhưng tôi biết rõ tôi hơn. Tôi cười-hơi ngạc nhiên trước đề nghj đột ngột mà tôi chưa hề nghĩ đến: “ Tôi chỉ “ yêu nhạc “ thôi, không đủ điều kiện, khả năng để “ theo nhạc “ được đâu! ”.
Tháng 4 năm ấy-TCS ra trường. Anh được phân bổ về tỉnh Lâm Đồng. rồi đưa về dạy ở một trường tiều học thuộc huyên Bảo Lộc. Xa anh, tôi không có dịp biết thêm về cuộc sống mới của anh ở đó-chỉ biết anh vẫn sáng tác đều-thường lên Đà lạt tham gia sinh hoạt ca nhạc ở quán café Văn. Về Saigon tham gia ca hát cùng sinh viên tranh đấu ở Vạn Hạnh, trường Luật, Văn Khoa, rồi Khoa hoc .Nghe nhạc của anh đã được thu băng, xuất bản, trình diễn trong những tụ điểm Saigon, trong giới sinh viên-học sinh-và nhất là được nghe Khánh Ly hát nhạc anh mỗi ngày ở những quán café nơi tôi đang dạy học…
Rồi nghe tin anh bỏ dạy về Saigon. Ra Huế. Đi lang bạt nhiều nơi. Vì tự ý bỏ nhiệm sở, nên giấy “ hợp lệ quân dịch “ của anh cũng bị hủy bỏ. TCS thường bị quân cảnh “ hỏi thăm sức khỏe” bất ngờ trên dường di chuyển. Có một “ giai thoại vui” về chuyện này : TCS đang ngồi trên xe đò ra Trung.-xe bị chặn lại đột ngột để quân cảnh “ kiếm soát giấy tờ”. TCS tỉnh bơ chìa ra tấm thẻ căn cước duy nhất còn lại bên mình cho người quân cảnh xét hỏi. Sau khi đọc thẻ căn cước rất kỹ, dù biết tuổi của anh vẫn còn trong thời hạn phải thi hành quân dịch- nhưng người lính quân cảnh đã vui vẻ hỏi : “ Anh là Trịnh Công Sơn à? “ – “ Phải! “ – “ Nghe anh dang ở Saigon cơ mà? “- “ Tôi về thăm quê…”- “Vậy anh Sơn đi nhé? “.
Khoàng cuôi năm 69-70, tôi dược gặp Ông Cao Huy Thuận vừa được Bộ bổ nhiệm về làm Trưởng Ty GD Phú Yên. Ông cho biết từ Ty GD Lâm Đồng về. Ông là người Huế. Đã biết TCS từ ngày anh về dạy ở Bảo Lộc. Cũng rất biết tài năng âm nhạc của TCS…
Ông Cao Huy Thuận kể lại : “ Sơn thường bỏ dạy không có lý do báo trước, hiệu trưởng cứ trình báo vể Ty hoài! Một lần, tôi xuống trường để “ xem thử” thực hư thế nào? TCS vắng mặt, Tôi dò hỏi nhà trọ của Sơn-lặng lẽ tìm đến. Sơn đang ở trên gác trọ một mình. Tôi xin phép chủ nhà lên gác khẽ khàng. Tôi thoáng trông thấy Sơn đang mãi mê ôm đàn,ghi ghi chép chép , nơi chiếc bàn nhỏ hướng ra cửa sổ …Tôi lại lặng lẽ xuống gác , lên xe ra về. Tôi đã “ nói nhỏ “ với gã hiệu trưởng-từ nay, không nên trình báo gì về Sơn nữa. Hãy phân công người dạy thay anh các buổi vắng, nhé? “.
Tôi nghĩ : “ TCS vào trường Sư Phạm, cũng rất yêu quý nghề dạy học-nhưng ở trong anh-nỗi đam mê âm nhạc lớn hơn gấp bội. Ở đời-cuộc sống không dài, cần có sự chọn lựa , nếu không thì cả đời sẽ không làm gì được cho những mơ ước lớn lao của mình! “.
Hôm nay-những ngày cuối năm, ngồi một mình bên tách café buổi sớm, đón nghe từng dòng nhạc của anh-tôi càng hiểu và thương anh hơn bao giờ…


Quê nhà, những ngày cuối tháng 12/ 2010.
MANG VIÊN LONG

Thứ Năm, 23 tháng 12, 2010

D Ì L U C I A Truyện Ngắn MANG VIÊN LONG


DÌ LUCIA(1)

Truyện Ngắn

MANG VIÊN LONG




Ông xã trưởng đang nói với đồng bào ấp L.N. về tình hình đất nước, vấn đề hòa bình và ngưng bắn, và lập đi lập lại lập trường chống Cộng của chính phủ. Tôi đứng trên bục gỗ (chỗ tụ họp nói chuyện, học tập, thảo luận là một ngôi trường sơ cấp hai lớp, một phòng bị ngã sập, mái tôn thủng nhiều lỗ đạn loại lớn) tay chắp sau lưng, ngó ra ngoài khung cửa sổ lớn. Đây là lần thứ tư hay thứ năm gì đó, tôi quay mặt ra ngoài, qua khung cửa sổ.
Tôi nhìn ra vùng nắng chiều ngoài cánh đồng, có mấy con trâu đang đi dạo theo bờ ruộng hẹp. Tôi muốn nghĩ tới một chuyện khác hơn là cứ để sự bực dọc ray rứt. Tôi chăm chú nhìn vào luồng nắng, nắng vàng, êm ả và mong manh quá. Tôi chợt nghĩ là từ khi vào lính, mặc vào người bộ áo quần dầy cộm nầy, tôi chưa có được một dịp nào, để nhìn một chút nắng êm đềm như vậy, mà mơ tưởng tới một ước mơ nhỏ nhắn tầm thường cho đời sống mình. Tôi bận rộn, tôi ngơ ngác. Tôi bồn chồn. Bấy nhiêu tình cảm đó cũng đủ khiến tôi mệt đừ trong hai mươi bốn giờ của một ngày.
Bóng nắng hình như mỗi lúc một vàng võ, yếu ớt hơn. Tôi đoán có lẽ trời đầy mây. Mùa đông - tháng mười, nắng vẫn đượm một màu vàng bạc buồn bã như vậy. Nếu là một người bệnh, nhìn màu nắng nầy, chắc hẳn sẽ thấy nôn mửa, hay chếnh choáng. Chiều hôm qua dì Lucia hình như cũng đã nói một cảm tưởng tương tự như thế với tôi khi tôi tới thăm dì. Lúc tôi đẩy cánh cửa sổ sát chỗ dì nằm, dì đã kêu chóng mặt vì ánh nắng chiều chếch xuống.
Tôi nhớ dì Lucia bị bệnh từ thứ hai tuần trước. Buổi chiều chúng tôi di chuyển từ chỗ công tác tới nhà thờ T.A. để nghỉ đêm, dì còn đứng ở cổng Cô nhi viện, nhìn bâng quơ ra cánh đồng, bầu trời lờ lững mây trước mặt. Tôi tìm một chỗ để cởi bỏ súng đạn, ba lô xong, tiến lại phía dì. Tôi không ngờ tôi đã gặp một người nữ tu trẻ, và đẹp như dì Lucia. Chắc là tôi khó có thể tả lại được một vẻ đẹp như vẻ đẹp của dì Lucia, nhưng tôi có thể nói chắc một điều, xưa nay tôi chưa hề được gặp một người nữ nào có một vẻ đẹp, vừa quyến rũ, vừa thánh thiện như thế.Có lẽ nét hồn hậu, điềm tĩnh của dì, khiến tôi về sau này, thấy nhớ dì hơn.
Tôi dừng lại trước mặt dì Lucia – gợi chuyện :
-Thưa dì, buổi chiều chắc dì rảnh? Dì Lucia nhìn tôi hơi ngạc nhiên.
-Chúng tôi ít khi rảnh lắm, hơn nữa, chúng tôi không muốn được rảnh rổi làm gì.
Tôi cười:
-Có lẽ dì khác với anh em chúng tôi nhiều. Chúng tôi mong được nghỉ, cũng không được. Đi công tác thế này, buổi chiều, sau năm giờ, coi như được thư thả đôi chút.
Dì cười:
-Phải khác chứ!
Dì Lucia nhìn tôi thật chậm sau câu nói. Tôi thấy đôi mắt dì có nhiều điều thích thú. Tôi hút một hơi thuốc dài, nhìn xuống chút khói mỏng ở đầu điếu thuốc : “Thưa dì, phải khác, nhưng có lẽ cũng có một điểm nào đó giống nhau chứ dì?”
-Ông ví dụ như điểm nào?
-Chẳng hạn như chiều nay, dì cũng có một tình cảm buồn như tôi… dầu cho là mỗi người có một cái buồn khác.
-Không được. Tại sao ông biết tôi buồn ?
-Tôi biết nhưng không thể nói được. Dì có đồng ý là có nhiều điều chúng ta biết, mà không thể diễn đạt, nói ra không?
Đôi mắt dì mở lớn:
-Tại sao vậy?
Tôi im lặng. Tiếng một đứa trẻ gọi dì Lucia ở dãy hành lang đầu. Dì vén tay áo, xem giờ, rồi hỏi : “Ông đóng ở đâu?”.
-Thưa dì, tối nay chắc phải ngủ nhờ tại nhà thờ. Ngủ quanh hiên. Mấy đêm rồi ngủ cạnh đồn Đại Hàn bên kia, đêm đêm chúng bắn đại bác gọi la ơi ới, ngủ không được.
Dì cười:
-Lúc nào rảnh, mời ông tới chơi, giờ tôi phải đi chích thuốc, rồi lo tắm rửa, coi sóc chỗ ngủ cho lũ nhỏ.
Dì Lucia quay vào cổng viện. Bước đi vội vàng. Bước đi thoăn thoắt. Những bước chân dì dầu có vội vã, nó vẫn là những bước êm ái nhẹ nhàng như những bước chân chim. Chim sẻ. Thực sự là tôi ngơ ngẩn vì những bước chân dịu dàng đó. Tôi nhớ: “Lúc nào rảnh, mời ông tới chơi”. Lời dì Lucia thốt lên tự nhiên ngọt ngào quá. Bây giờ tôi đã được rỗi rảnh đây, tôi muốn được đi theo dì vào viện, tôi muốn được nhìn lại nụ cười ánh mắt ấm cúng hồn hậu của dì lúc này. Tôi búng mẩu thuốc xuống đất, quay nhìn vào phía trong viện, những bóng áo chùng đen, những bóng áo dài trắng, thấp thoáng trong các dãy hành lang sâu lòa nhòa bóng tối. Tự nhiên tôi đi ngược trở lại ngôi nhà thờ. Buổi chiều âm u. Có lẽ đêm nay sẽ có một cơn mưa lớn…

Qua hệ thống liên lạc của trung đội nghĩa quân trú đóng gần căn nhà được mượn tạm dùng làm trụ sở xã, tôi nói chuyện với ông Loan Bích. Tôi trình bày cùng ông tình hình an ninh của xã, về mấy ông nhân dân tự vệ, về phương tiện và sức khỏe của toán công tác và xin được tạm nghỉ đêm ở một tọa độ khác. Ông ta vui vẻ chấp thuận lời đề nghị của tôi, kêu tôi cho một tọa độ chính xác, để có thể yểm trợ nếu có việc gì xảy ra. Tôi giở bản đồ, đọc tọa độ mới, tọa độ của ngôi nhà thờ chúng tôi đã nghỉ tối hôm trước. Ông Loan Bích hỏi: “Báo cáo trong ngày anh có gặp trở ngại nào không?”. Tôi đáp : “Thưa Thiếu tá, không có gì”, và đặt ống liên hợp xuống.
Suốt ngày nay, chúng tôi đã theo trung đội nghĩa quân, nhân dân tự vệ, cảnh sát xã, đến ấp X.M - một ấp được ghi nhận tình trạng an ninh yếu kém nhất của xã. Theo sự lưu ý của ông cuộc trưởng, tôi nhìn thấy bất cứ ngôi nhà nào của ấp này cũng có một chiếc bàn thờ, nhang đèn nghi ngút. Dân cư thưa thớt, từng ngôi nhà rải rác, vườn tược hoang vắng, tôi chỉ gặp được toàn đàn bà, con nít và ông già. Tất cả họ đều có vẻ sợ hãi, nghèo khó, và tội nghiệp. Sống ở đây, tôi biết họ phải gánh lấy nhiều điều đau lòng, nhưng tôi biết làm sao hơn, khi tôi chỉ ở lại với họ một ngày, chỉ có nhiệm vụ giải thích, loan báo cho họ về một ngày ngưng bắn hay hòa bình sắp tới. Tôi không được làm gì khác, và tôi cũng không có đủ quyền để làm khác. Tôi cũng đã cầu nguyện hòa bình, yên ổn như họ. Tôi chỉ biết cùng họ ước mong rằng thù hận, và máu lửa, thôi không còn kéo dài, tiếp diễn trên quê hương này nữa mà thôi. Hình ảnh kham khổ của họ đã cho tôi nhìn thấy rõ chiến tranh, thù hận, là một điều đáng ghê tởm, và đáng nguyền rủa nhất. Có bao giờ, những người chủ chiến nhìn thấy được những nét mặt, những đời sống cùng khổ này không?
Tôi được Souer Thérèse cho hay, dì Lucia đang nằm trong phòng, cuối dãy nhà, vì bệnh nặng. Tôi xin phép Soeur được tới thăm di Lucia. Soeur do dự một lúc, nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên, rồi cười khỏa lấp: “Ông vào xin Bề Trên. Có lẽ Bề Trên sẽ cho phép”. Tôi ngập ngừng, chưa nói được gì thì Soeur đã bước đi. Tiếng lũ trẻ ồn ào cười nói phía sau khu nhà giữa. Tôi bước dần ra phía sau, nghĩ tôi có thể lén Bề Trên tới thăm dì Lucia một chút cũng không hề gì. Tôi chắc tôi sẽ không làm một điều gì có tội khi thăm một người bệnh.
Dì Lucia kêu lên:
-Ông, làm sao ông biết tôi nằm ở đây?
Tôi cười:
-Hỏi thăm, thưa dì.
Dì ngồi dậy, hai chân xếp trên nệm, dáng bình thản;
-Ông hỏi thăm ai ?
-Thưa , dì Thérèse.
Tôi thoáng thấy trên nét mặt dì Lucia hiện lên một chút lo lắng, hay một chút gì bàng hoàng. Dì cúi đầu nhìn xuống tấm drap trắng phủ nệm, im lặng, khó xử. Tôi đẩy cánh cửa sổ cạnh giường của dì, ánh nắng chiều chiếu chếch vào chỗ dì ngồi. Dì Lucia ngẩng lên, nói nắng chiều buồn quá. Nó làm người bệnh chóng mặt. Lúc tôi định kéo khép cánh cửa lại, thì dì cười, nói thôi, để vậy cho sáng sủa. Tôi khuyên dì nên để cửa cho quen, đau bệnh mà thiếu ánh sáng, có lẽ dì sẽ khó khỏi. Dì cho tôi hay dì bị sốt đột ngột, từ nửa đêm hôm qua. Cơn sốt nóng kéo dài tới ba, bốn giờ sáng, rồi dì bị rét. Bây giờ, đã khỏe rồi, nhưng Bề Trên chưa cho phép rời khỏi phòng. Tôi cũng kể cho dì Lucia nghe mấy ngày công tác vừa qua của tôi, những chiếc bàn thờ hương khói nghi ngút, những chiếc hầm bí mật, những nét mặt nhăn nhó của đám người tôi được gặp, và sau cùng là ước mơ của tôi về một ngày hòa bình được trở về dạy học, được vun xới một mảnh vườn, được viết những điều muốn viết.
Dì Lucia tươi cười:
-Ông ước mơ nhiều quá.
Tôi hút một hơi thuốc, cười theo dì:
-Đâu có gì là nhiều, thưa dì. Sống như tôi mà không có hy vọng, ước mơ, thì khổ chết. Đời lính ngắn ngủi và buồn lắm – không biết “ra đi” lúc nào!
Dì hỏi:
-Vậy ông có tin được như vậy không?
Tôi đáp:
-Dĩ nhiên là phải tin. Tôi cầu nguyện luôn…
-Tôi cũng cầu nguyện cho ông!
-Được vậy thì diễm phúc cho tôi quá - Xin dì hãy cầu nguyện cho tôi.
Dì nhìn tôi xúc động. Đôi mắt dì chợt sáng lạ thường. Trong tia sáng của đôi mắt dì Lucia, tôi mơ hồ đã gặp, đã thấy được ở đâu đó. Tôi nhìn dì, im lặng. Chúng tôi ngồi im lặng. Tôi nghe rõ tiếng chim sẻ kêu dọc theo mái hiên ngói, phía ngoài hành lang. Buổi chiều đã xuống thật thấp bên ngoài…

Tiếng vỗ tay nổi lên. Tôi quay phắt lại, thấy mọi người nhìn tôi - Ông xã trưởng nhường lời cho tôi. Tôi tiếp tục kêu gọi bà con nêu ý kiến, thắc mắc. Tôi lập lại lời hứa là sẽ lấy sự thành thực, lấy sự suy nghĩ chân xác để trả lời. Tôi không thích chiến tranh. Tôi không là cán bộ tuyên truyền. Nhưng là một người trẻ biết trách nhiệm với quê hương, còn tin tưởng và hy vọng để xây dựng. Chính chúng ta phải xây dựng xứ sở của chúng ta chớ không ai khác, sau ngày ngưng bắn và hòa bình.
Chúng tôi đi từ giã mấy gia đình cạnh đó, rồi trở về xã. Đây là ngày công tác cuối cùng của chúng tôi, ngày mai sẽ trở lại chi khu, nhận lãnh công tác ở xã khác. Tôi nôn nao chờ xe để trở lại ngôi nhà thờ. Trong đầu tôi, hình ảnh dì Lucia đứng ở cổng Cô nhi viện, bóng áo trắng lẻ loi, đôi mắt xa vời buồn bã, như lúc nào cũng khiến tôi nao nức, hoang mang. Trong giấc ngủ muộn màng đêm khuya, tôi vẫn thường mơ thấy dì Lucia đứng đó, trước cánh cửa sắt, bờ tường rêu đen chạy dài theo con lộ vắng vẻ. Từ ngày gặp dì Lucia, tôi thường tự hỏi, tôi có còn dịp nào gặp lại được dì sau này chăng? Dì đã nói: “Xa đây, chắc ông không còn dịp nào gặp tôi nữa đâu. Tôi cũng sắp đi nơi khác rồi”.
Tôi đến nhà thờ thì anh em đã treo võng nằm hút thuốc, nói chuyện, rải rác dọc bờ rào. Tôi vội vã cởi bỏ súng đạn, nói với mấy người bạn là đi thăm dì Lucia lần chót. Họ cười : “Còn ngày nào ở đây, ông còn nói đi thăm dì Lucia ngày đó mà”, một người bạn nói.
Tôi cười:
-Ở đây hay ở đâu, chắc tôi phải đi thăm dì Lucia mỗi ngày.
Tôi rời họ ngay để tránh những câu nói đùa cợt, khó lòng ngăn cản. Thực sự là họ đoán đúng: Tôi đã yêu dì Lucia. Điều đó hẳn dì Lucia cũng nghiệm thấy. Phần tôi, tôi chưa thể đoán biết rằng dì có nghĩ gì về tôi, có giống như tôi đã yêu và nhớ dì ngay trong những giấc ngủ. Tôi chỉ thấy dì thực vui khi gần tôi, nói chuyện, và dì trầm lặng khi nghe tôi từ giã. Tôi đọc được ở đôi mắt dì nhiều hơn là lời nói. Đôi mắt ấy thực tinh khiết và nồng nàn.
Dì Lucia hỏi:
-Như vậy là sáng sớm ngày mai ông đi rồi phải không?
Tôi lập lại:
-Thưa dì, sáng sớm ngày mai.
Dì cười :
-Mấy ông khổ nhỉ?
Tôi ngước nhìn dì:
-Khổ nhiều chuyện lắm dì ạ.
-Tôi biết.
-Dì có buồn không?
Dì Lucia ngập ngừng:
-Tôi cũng là một con người…
Chúng tôi đi dọc theo bờ tường, phía trong, dưới những hàng bạc hà cao. Cánh đồng phía trước im vắng. Khu nhà nguyện chưa có bóng người. Dì Lucia lặng lẽ hơn sau câu nói, như một lời tự thú, một câu giải bày giản dị nhưng quá khó với dì lúc này. Tôi nghe tôi bàng hoàng. Nếu dì Lucia không cầm xâu chuỗi trên tay, không mặc bộ áo chùng trắng, không còn vướng bận tới những lời khấn trước đức Chúa để hiến dâng trọn đời dì, thì tôi đã nói thực với dì rằng tôi đã yêu dì như một mệnh số. Tôi không thể quên dì. Và ước mơ của tôi, sau cùng, là được gần dì mãi như chiều nay. Nhưng dì Lucia đã quay lại hỏi : “Giáng sinh này ông ở đâu?”
-Thưa dì chưa rõ được.
Dì Lucia cười:
-Tôi hỏi để coi ông có thể tới vui với mấy em ở đây được không?
Tôi quả quyết:
-Tôi sẽ tới, thưa dì. Chắc là ở đâu tôi cũng sẽ về đây ngày Giáng Sinh… Dì hãy cầu nguyện cho tôi còn sống để trở lại.


( Tạp Chí BÁCH KHOA số 384-th 11/ 1973)

MANG VIÊN LONG

Thứ Hai, 20 tháng 12, 2010

MÙA XUÂN Ở TRÊN CAO Truyện Ngắn MANG VIÊN LONG



MÙA XUÂN Ở TRÊN CAO
Truyện Ngắn



Mang Viên Long




Cứ một ký lô cọng lá dừa được vuốt sạch-Hiên mua lại với giá năm ngàn đồng.Mỗi ký cọng lá dừa, Hiên bó được ba cây chổi. Mỗi cây chổi đem ra chợ bán được năm ngàn loại tốt, và bốn ngàn loại thường. Hằng ngày vợ chồng Hiên ngồi suốt từ sáng sớm đến tối mịt, mỗi người bó được từ 15 đến 20 cây chổi!
Hiên thường nhận làm chổi lá dừa-còn Mân-chồng nàng, nhận làm chổi đót; vì chổi lá dừa dễ làm,nhẹ nhàng, và cũng “ dễ ăn” hơn. Đót mua vào 350 ngàn đồng một ký, nếu được chọn vuốt chải ngay ngắn sạch sẽ trước, thì mỗi ngày Mân bó được 20 cây. Giá bán có 3 loại: Loại đặc biệt bán giá 22 ngàn đồng, loại tốt giá 20 ngàn, loại thường giá 17 ngàn dồng một cây. Hiên đã có lần tính thử, cứ một ký đót sẽ kiếm được một trăm ngàn đồng tiền công lãi. Mân dã có lúc làm quên trưa, một ngày bó được 20 cây! Trong hai chục cây chổi ấy-anh phải chia cho lão Năm- Bụng và dì Sáu hết hai chục ngàn đồng cho mỗi người một ngày tiền công còng lưng vuốt dót, làm sạch-sắp xếp ngay ngắn cho anh. Ngày đầu gọi lão Năm -Bụng và dì Sáu đến giúp- Mân nói với vợ: “ Mình chia sẻ cơm cháo cho Bác Năm, dì Sáu nghe em? Mình kiếm được miếng cơm, thì hai người cũng có bát cháo mà! Còn con Nghĩa, thằng Tình-mình nên để cho con nó có thời gian mà học…Đời tụi mình đã lỡ vậy-không lẽ để con cả đời cắm đầu xuống mấy cọng đót, cọng lá dừa ? Nhìn thấy tụi nó cắm cúi vào bó đót suốt ngày, anh không yên tâm được em à!”.
Hiên ngước nhìn chồng với tia nhìn yếu ớt, chậm-vì nỗi buồn lo trĩu nặng và nhiều đêm thức khuya bên bó chổi trong ánh đền điện tròn đỏ quạch:
- Em cũng đã nghĩ vậy mà! Hiên thở dài-tháng Chạp này công việc nhiều, chổi bán được-chúng không thể kham nỗi đâu?
- Ăn uống thì quanh quẩn chí có mắm, với rau, thức khuya dậy sớm vậy, anh ngại Tết chúng đau thì thêm khổ!-Mân tiếp tục buột dây nhựa quanh bó chổi đang làm dang dở…
Lão Năm -Bụng sống một mình nơi góc phía sau hiên đình làng từ ngày vợ lão mất vì bệnh xơ gan! Lão đã phải bán đi thửa vườn và căn nhà tranh còn lại để trả tiền nợ đã vay lo chửa chạy thuốc men cho vợ từ nhiều tháng trước. Trả nợ xong, còn một ít dể làm vốn kiếm ăn thì đứa con trai duy nhất lưu lạc ở Saigon nghe tin đã trở về gầm gừ hạch sách lão rồi lấy hết khoản tiền còn lại mới chịu ra đi! Lão Năm buồn. Ngã bệnh-và chiếc bụng của lào ngày một lớn lên. Hàng xóm thường gợi tên thứ Năm của lão kèm theo chữ “ Bụng” để phân biệt với lão Năm- Kèn trong ban tang lễ của đình.Cả hai đều sống chui đụt hai bên ngôi đình làng như đôi bạn chí cốt-như hai đám rong bèo tình cờ bị trôi dạt vào chân cầu …
Tình cảnh của dì Sáu cũng thật cay đắng: Trước, nhà dì cũng thuộc loại khá giả trong thôn. Ruộng đôi ba mẫu. Vườn cây ăn trái vài hecta. Vợ chồng dì sớm chiều trà thuốc thong dong một thời. Sau năm 75-ruộng thì giao nộp cho hợp tác xã,còn vườn cũng được “ hiến” để xây cất nhà kho . Gia đình dì Sáu được cấp cho một khoảnh đất ở cuối thôn. sau lưng ngôi trường tiểu học. Ông Sáu xin vào làm cai trường , còn dì Sáu thì hằng ngày với mẹt bánh kẹo cốc ổi ngồi trước cổng trường, kiếm từng dồng bạc lẻ của đám học sinh nghèo khó!
Hai cậu con trai của dì Sáu đần dà cũng đều tốt nghiệp đại học-nhưng cả hai đều ở lại Saigon kiếm việc làm, tìm người yêu , mua đất cất nhà- không đứa nào chịu về quê để gần gũi sớm hôm với vợ chồng dì cả! Sau ngày Ông Sáu mất vì cơn đột quỵ khi vẫn còn cầm trên tay cái dùi đang dánh trống tan trường-Cậu con trai trưởng về đem dì Sáu vào Saigon sống chung. Ai cũng vui mừng cho dì từ đây có cuộc sống an nhàn, hạnh phúc bên dâu con, cháu nội ở Saigon. Nhưng chỉ vì cái “ tật” nhỏ của dì để là cái cớ cho người con dâu hất hủi dì ra mặt- Dì Sáu có “ tật” ghiền thuốc lá từ ngày còn ông Sáu bên cạnh. Mỗi lần muốn hút thuốc, Ông Sáu đều nhờ vợ mồi lửa rồi đưa cho mình. Dì làm việc châm thuốc cho chồng một cách thích thú, âu yếm.Còn ông Sáu thì hả hê nói hút thuốc vậy mới ngon. Vài năm sau-khi sinh thằng con đầu, dì đã ghiền thuốc rồi! Ông Sáu mất-dì càng hút thuốc nhiều hơn.Có lần dì đã nói với Hiên: “ Dì biết đàn bà hút thuốc là hư hỏng,nhưng sao mỗi lần ngồi không, nhớ dượng mày-dì lại nhớ điếu thuốc ? “ Dì cười hồn nhiên: “ Đêm đêm dì ngồi với điếu thuốc như thấy có ông ấy bên cạnh vậy, cháu á! “. Chính vì cái “ tật” không rứt bỏ dược ấy mà người con dâu đã nặng lời với dì nhiều lần, để rồi dì phải lầm lũi trở về, sống cô độc trong căn nhà rách trước dột sau: “ Bà có đủ thói hư tật xấu vậy-không thể sống chung với tôi được đâu!”. Người con trai nghe lời vợ nói sang sảng ngay trước mặt mình-cũng chỉ im lặng. Dì đã khóc: “ Mẹ biết mẹ không còn xứng đáng với con-con cho mẹ về quê để gần gũi với bà con làng xóm được ngày nào hay ngày ấy, con ạ! “. Không sống được trong nhà của người con trưởng, dì khó có thể về ở chung với người con trai thứ vì người con dâu đã có lần nói thẳng với dì ngay ngày đầu mới chân ướt chân ráo vào Saigon: “ Mẹ liệu ở chơi vài hôm rồi về-ở đây sinh hoạt đắc đỏ, mà tụi con còn phải lo cho con ăn học chi phí nhiều nữa, không gánh nỗi thêm ai được nữa cả ! “. Dì ngồi nghe mà nước mắt cứ rưng rưng- lòng điếng lặng; cảm thấy toàn thân như mềm nhũn đi- tan rã ra . Sau phút bàng hoàng như tia điện cực mạnh quét qua người-dì chỉ cười thầm-nghĩ, đất Saigon nhà cửa rộng rải sang trọng vậy mà cũng không có một chỗ nhỏ nào ấm áp cho mẹ mình?.Những thứ tiện nghi trang hoàng sang trọng đẹp đẽ kia đã choáng hết chỗ rồi? Chỉ với mẹt bánh keo, cốc ổi ngày nào cọng với chút tiền bồi dưỡng cho một lao công hạng bét-vợ chồng dì đã “ cõng” nỗi hai đứa con qua bao tháng năm cơ mà?
Hiên loay hoay xếp lại nắm tiền nhàu nhò đang cầm trên tay-thoáng nở nụ cười mơ hồ trên gương mặt đờ đẫn vì mất ngủ.Hôm nay là phiên 18-còn 2 phiên chợ nữa là hết năm rồi! Hai phiên 23 và 28 là tiền lời ròng mà vẫn còn gần một trăm cây chổi nữa…Những phiên giáp Tết-Hiên vừa đặt gánh chổi xuống lề đường phố chợ là người mua xúm lại –Hiên tất bật chào mời không kịp thở. Có người mua chổi cho cả năm vì kiêng đầu năm không mua được. Có người vừa về nhà mới-cũng mua.đến chục cây mỗi loại. Hiên cắm cúi với đống chổi nắm tiền trong tay mặc cho khu chợ náo nhiệt với đủ thứ âm thanh rộn ràng của xe cộ, của mấy chiếc máy phóng thanh quảng cáo áo quần modern khuyến mãi-bánh kẹo, bột giặt, kem dánh răng - của mấy chiếc loa xách tay keo dính chuột , bột chùi đồng,bấm lỗ tai…Hiên dường như luôn mãi mê với những toan tính trong đầu mặc cho cái nắng đổ xuống mỗi lúc một gay gắt làm nóng bừng khuôn mặt , mặc cho mồ hôi chảy ròng ròng xuống đôi má xanh xao không kip lau, mặc cho mọi người nhộn nhịp se sua áo quần lướt qua lượn lại phía trước, và cũng măc cho mùa xuân đang réo gọi đâu đó quanh mình. Hiên chỉ cảm thấy đói cồn cào trong ruột. Nàng ngước nhìn quanh một lượt như để tìm cái gì có thể mua ăn được, nhưng chỉ thấy toàn là người đông nghịt, chen chúc-nàng cảm thấy ngầy ngật- hơi chóng mặt, và cơn buồn nôn bắt đầu dấy lên-nhẹ nhàng . Đêm qua, Hiên đã gắng thức làm cho đến khi nghe tiếng gà gáy lần đầu sau nhà mới thu xếp công việc chui vào giường nằm. Mân trở giấc ôm hôn nàng thật lâu làm nàng không chợp mắt được. Một phần chân trái của Mân đã bị mất sau trận Dakto năm nào thường xuôi Hiên thao thức mỗi lần được Mân âu yếm, đòi hỏi! Một phần chân anh đã bị mất đi lâu rồi-có lẽ dã tan thành cát bui ở bìa rùng hốc núi nào rồi nhưng nỗi buồn tủi cứ vẫn còn đêo đẳng suốt dời anh. Sau 75- nhiều người đã nhìn ngó vào khúc chân còn lại của anh như nhìn vào điều gì đáng ghê tởm. Nhiều lần gia đình Mân dã bị từ chối không cho nhận phần cứu trợ cấp cho gia đình nghèo vì không nằm trong diện “ chính sách” để đền ơn dáp nghĩa . Hiên vì thế càng thương yêu cho nỗi bất hạnh của Mân như thương yêu cho chính bản thân côi cút cô độc hẫm hiu của mình. Nhớ năm nào- Mân tình cờ gặp Hiên tất tả dìu dắt hai đúa em chạy ngược lên phố tránh bom dạn khi hiệp định Paris đang chuẩn bị ký kết. Sau đó không lâu, anh tìm lại căn nhà của người bác mà Mân đã giúp đưa chi em Hiên đến tạm trú để xin được hỏi nàng làm vợ. Cha mẹ Hiên đã ở lại quê mong giữ chặt hai bồ lúa vừa mới gặt phơi khô chưa kịp ăn một hạt , đã không còn nữa cùng với ngôi nhà cháy rụi! . Người bác đã hoan hỉ đứng ra tổ chức lễ cưới cho Hiên nhanh chóng ngoài dự đoán của Mân. Ông bảo : “ Chiến tranh mà cháu!Sống với nhau sớm được ngày nào thì mừng ngày đó! Thời của tụi bay sao mà khổ hung dữ vây? Bác miễn hết mọi lễ lộc ,chỉ cần cháu yêu thương đùm bọc chị em con Hiên thật lòng là quý rồi!”. Gần hai năm sau-tháng giêng năm 75, Mân bị thương ở Dakto. Và anh đã được trở về cùng Hiên trên cặp nạn gỗ…
Sáng nay Hiên ra đi sớm khi Mân và hai con chưa thức dậy- chưa có chút gì bỏ vào chiếc bụng trống từ sau bữa cơm chiều vội vã. Hiên buột mấy cây chổi còn lại thành bó lớn-đặt tam lên lề đường-chệnh choạng bước vào phía trong cổng chợ kiếm một cái gì để ăn…



Hiên cầm hai càng xe kéo phía trước-Tình và Nghĩa phụ đẩy từ phía sau. Chiếc xe cải tiến mua lại của HTX đã phế bỏ, Mân ra sức sửa sang mấy hôm- cũng đã giúp cho mẹ con Hiên nhiều chuyện như sáng nay. Chiếu hôm qua , được nghỉ học-ngồi lân la nghe mẹ vừa bó những cây chổi cuối cùng cho phiên chợ cuối năm-vừa nhắc kể chuyện Tết-hai anh em Tình đều nao nức xin mẹ được đi coi chợ phiên Tết 28….
- Mẹ đã hứa đến phiên chợ cuối năm cho hai đứa con dược đi theo mà, mẹ?-Tình thỏ thẻ -mắt nhìn dò xét vào khuôn mặt ưu tư im lìm của Hiên.
- Đúng rôi- Nghĩa reo lên, Mẹ cho tụi con phụ đẩy xe nhé?
Tình giật nhẹ bàn tay Hiên-“ Sáng nay con nghe ba nói sẽ chở chổi lên chợ bằng xe cải tiến vì mẹ không gánh chổi một mình được hết mà?”.
Hiên dừng tay-nhìn thật chậm vào đôi mắt của Tình rồi đến Nghĩa-nàng như nhìn thấy trong đôi mắt thơ ngây của chúng mùa xuân vẫn còn trong trẻo, nguyên vẹn. Tuổi thơ của chúng thật hồn nhiên nhung cũng thật lặng lẽ .Hiên ước mong nỗi khổ không đến quá sớm với chúng như bao lũ nhỏ đang lang thang trên các néo phố chợ mà nàng vẫn thường gặp. Hiên mừng thầm- khẽ cười: “Phiên cuối năm, phải dùng xe-nhưng hai con theo mẹ làm gì cho mêt? Mẹ kéo một mình cũng được mà? Mệt khúc nào, mẹ nghỉ khúc đó- Hai đứa ở nhà chơi, phụ ba quét dọn, tưới hoa-có khỏe hơn không? “
- Còn đến ba ngày tha hồ dọn dẹp mà, mẹ?-Tình cố nàn nỉ.
- Anh Tình noi đúng đó mẹ-Nghĩa lại kéo tay Hiên, nhà mình có gì đâu mà để quét dọn?
Thật tình là ngôi nhà tranh vách đất nền lát gạch thẻ của vợ chồng Hiên không có gì để quét don cả! Nó trống trải với mấy thứ vật dụng cần thiết cũ càng nằm im lìm từ thuở nào-như cuộc đời trống trải đơn độc không mấy đổi thay của họ bấy lâu..Chạy lo cho miếng ăn, manh áo,bút mực, thuốc thang cho gia đình qua ngày đã là khó rồi-lấy gì mà sắm sửa?. Hiên nhìn thấy sự nghèo khó của mình đã phần nào không che dấu được đôi mắt thơ trẻ của con-nàng vui vẻ: “Được rồi! Nhưng phải dậy sớm nghe chưa? Phải ăn no vào thì mới đẩy xe được-nếu không hai đứa còn làm nặng thêm xe của mẹ nữa thì bỏ phiên chợ…”
Buổi sáng. Gà gáy canh tư…
Chiếc xe của mẹ con Hiên đã qua được khỏi con đường hẻm lầy lội tăm tối, rẽ qua con đường bê tông rộng dẫn lên quốc lộ .Con đường sáng lờ mờ. Chiếc xe lọc cọc lọc cọc gõ đều trong buổi sớm còn ẩm đục hơi sương gây gây lạnh. Người đi chợ gồng gánh, thồ chở, thấp thoáng trong cõi im lặng của đất trời cuối Chạp như những bóng ma chập chờn nhẫn nại trên đường . Không có một tiếng nói nhỏ nào trong cái vắng lặng buồn tênh của buối sớm mai miền thôn dã. Ai ai cũng chật kín nỗi lo, toan tính trong chiếc đầu đã mụ mẫm cả tháng nay rồi! Tết gần kề mà mưa gió vẫn chưa nguôi. Hai cơn bão lũ dữ dằn nối tiếp 9 và 10 đã quét sạch cả sự nghiệp gầy dựng cả đời của nhiều gia đình mà mới chỉ ngóc đầu lên là đã thấy Tết đến!Người mất đi vừa tròn một trăm ngày chưa nguôi buồn thương thì xuân lại về! Trên đường, chỉ có tiếng gió. Gió khua động hàng tre hai bên đường nghe rõ từng chặp, lào xào-như lời thì thầm của làng xóm còn đang mê ngủ trong nỗi bàng hoàng bão lũ vừa đi qua.Tình càm thấy hơi nóng râm rang trong người , mồ hôi cũng bắt đầu thấm ướt hai bên gò má.Tình cắm cúi dang hai tay đẩy mạnh xe để phụ cho em-nghĩ,phía trước mẹ chắc cũng đã thấm mệt lắm rồi! Chợ còn bao xa?-Tình muốn cất tiếng hỏi mẹ-nhưng sợ chiếc xe sẽ nặng thêm, chậm mất buổi chợ phiên cuối cùng.
Tiếng Nghĩa bỗng vọng lên bất chợt:
- Mẹ ơi! Có phải phiên này mẹ mua áo quần mới cho con không?
- Ừ!
- Mua cho con đôi giép nữa nhé? Giép cũ của con bị đứt quai lâu rồi!
- À…
- Anh Tình có được mua đồ Tết không, mẹ?
- Có!
- Mẹ mua bánh kẹo như nhà con Minh nữa chớ, mẹ?
- Ừ!
- Mẹ có mua gì cho ba không?
- Có!
- Mẹ mua gì?
- Để mẹ bán được hết xe chổi này rồi sẽ tính, con à!
- Nếu mẹ bán không hết thì sao?
- Gắng ngồi đến chiều, thế nào cũng hết mà con !
- Mẹ có mua gì cho mẹ không?
- Không!
- Sao mẹ không mua đôi giép? Đôi giép mẹ đứt quai lâu rồi mà?
- Mẹ cột lai….
Nghĩa im lặng. Nó cắm cúi gắng sức đẩy- nghe hơi thở mình nặng nề, thoi thóp trong lồng ngực. Chiếc xe đã trườn lên mặt quốc lộ lọc cọc lọc cọc tiến vào khu chợ tràn ngập ánh diện. Nghĩa ngước nhìn lên bầu trời thấy đã ửng chút nắng- từng đám mây xám vần vũ còn sà thấp bay lơ lửng trên đầu…
Nó chợt càm thấy mùa Xuân hình như còn ở khuất trên ấy-rất xa-trên cao…


Quê nhà, những ngày vào xuân…

MANG VIÊN LONG

Thứ Năm, 16 tháng 12, 2010

THƯ GỞI QUÍ THÂN HỮU... Mang Viên Long


Thưa Quý Thân Hữu

Trong Nước & Nước Ngoài...



Sau năm 1975 tôi bị thất lạc hết những sách báo đã lưu giữ ( kể cả bản thảo ), nhưng sau nhiều năm-được sự giúp đỡ của Bạn Văn/ Bạn Đọc-đã tìm lại được một phần đã mất.

Hiện nay- tôi còn nhớ có những bảo thảo. tác phẫm được in-xuất bản truóc 75 của tôi chưa tìm thấy được.

Rất mong Quý Thân hữu giúp-để tôi có thể " gặp lại những đứa con tinh thần" đã lưu lạc bấy lâu...

Cụ thể : -Tạp chí Văn Số dặc biệt Giáng sinh năm 73 ( hay 74) có truyên ngắn " MỘT TRƯỜNG HỢP " ( hay " Một Câu Chuyện Tình" ? ).

-Tap chí Phổ Thông ( năm 72-73 ) có truyện ngắn "CHIỀU TRÊN SÔNG ĐÁ BÀN" và các bải tạp bút...

- Tuần báo Khởi Hành : năm 71-74 : Những bài tạp bút và các truyện ngắn.

- Tập Truyện " CÓ NHỮNG MÙA TRĂNG " ( Nguyệt san Tân Văn/ tạp chí Văn-Nhà XB NĐV).

- Tạp chí Vấn Đề : Các truyện ngắn ( 1971-1974)...
- Tùy bút " ĐOA HỒNG CHO NGƯỜI YÊU" ( nhà XB Bông Hồng 70-71)

Xin vui lòng liên hệ : Mang Viên Long 1944@gmail.com ( hay Mobi : 01266623513/ địa chỉ : 134, Ngô Gia Tự-Thị trấn Bình Định-huyện An Nhơn/ BìnhĐịnh).


Chân thành cám ơn!


MANG VIÊN LONG

Thứ Tư, 15 tháng 12, 2010

CÓ NÊN CẨN TRỌNG KHI NGHE LỜI THƯƠNG YÊU? Tạp Bút MANG VIÊN LONG


CÓ NÊN CẨN TRỌNG

KHI NGHE LỜI THƯƠNG YÊU?


Tạp Bút Mang Viên Long




Thương Yêu là một phẩm chất cao quý, thiêng liêng của con Người ( và muôn loài)-cũng là đặc tính chung của nhiều tôn giáo, triết lý sống cao đẹp; để cuộc đời được thăng hoa, có ý nghĩa và đạt đến hạnh phúc chân chính lâu bền. Tình Thương Yêu là biểu hiện của cảm xúc, sự rung động tự nhiên của trái tim trước tác động trực tiếp ( hay gián tiếp ) của ngoại cảnh. Do vậy, Tình Thuơng Yêu theo một bình diện nào đó-là thước đo giá trị phẩm chất mỗi người. Đó là một sự “ ban tặng’ ( hay hiến dâng) của người cho người một cách vô điều kiện -rất đáng trân trọng.
Vậy những lời Thương Yêu là những lời nói dịu dàng, ấm áp-tha thiết , giúp ta được an vui, và bớt đi sự trống trải trong đời người vốn dĩ luôn “ bất an và cô độc”-thì sao lại “ cẩn trọng” trước những lời lẽ nồng nàn, ngọt ngào ấy?
Trong thực tế của đời sống dẫy đầy phiền lụy và phức tạp-liệu chúng ta có nên tiếp nhận mọi lời lẽ Thương Yêu mà không tỉnh giác nhận rõ ra được bản chất thực sự của chúng không? . Người đời cũng thường nói “ tấm huy chương nào cũng có hai mặt ” thì những lời êm ái Thương Yêu có gì khác nhau chăng?
Chúng ta đều biết được rằng, triết lý sống của Đạo Phật dạy lòng Từ Bi phải được bắt nguồn từ Tâm Thanh Tịnh, không phân biệt. Tình Thương Yêu nếu không được nẩy nở, xuất phát từ cái Tâm rổng rang,vắng lặng-trong sáng ấy-thì chắc chắn sẽ không phải là tình Thương Yêu chân chính!
Vì tính ưu việt của những lời lẽ Thương Yêu là sẽ tác động tích cực cho người nghe ; khiến họ dễ xiêu lòng, thuận theo- sẽ mang lại nhiều lợi lộc cho người nói-nên chúng đã bị lạm dụng khá nhiều trong cuộc sống, như một “ chiêu bài” hay “ tấm bình phong “ che chắn an toàn cho những mưu dồ bất thiện. Có lẽ, chúng ta cũng đã thường nghe ( và đọc trên các báo ) –những thảm cảnh đau lòng đã xảy đến cho bao người cũng đều bắt đầu từ những lời lẽ Thương Yêu ngọt ngào? Tục ngữ của chúng ta cũng đã từng nhắc nhở “ Mật ngọt/ chết ruồi! “ đó sao?
Sự “ cẩn trọng ” trước mọi lời “ đường mật ” Thương Yêu chính là sự tỉnh giác , sáng suốt của một cái Tâm yên tịnh, chánh niệm. Của một trí tuệ thông hiểu sâu rộng. Sẽ tránh được cho mình mọi nỗi ưu phiền khổ đau , và giúp tránh cho người những hành vi tội lỗi, đen tối…
Sự văn minh tiến bộ của Khoa học-kỹ thuật dù có đạt đến mức độ nào đi chăng nữa, cũng không thể giúp con người “ đo lường “ được lòng người ( Dò sông dò biển dễ dò/ Nào ai bẻ thước mà đo lòng người-ca dao); cũng không thể “ chữa trị/ ngăn cản” dược mọi ngỏ ngách vi tế của những cái tâm bất thiện len lỏi vào đời sống! Khoa học giúp khám phá vũ trụ, vạn vật-nhưng chưa giúp được nhiều cho sự khám phá con người-giúp con ngừoi ngày càng hoàn thiện, hay làm phong phú cho đời sống tâm linh diệu kỳ đã và đang làm cho con người đau khổ ?
Có nhiều nhận định bi quan hơn, cho rằng-sự văn minh vật chất, đã đẩy con người xa con người! Lôi cuốn con người đi dần vào một đời sống khô cằn, khép kín giữa những tiện nghi ngày càng nhiều! Lòng tham muốn càng có dịp phát sinh . Người ta tranh nhau bỏ ra hằng trăm triệu dola để được lên cung trăng, thăm viếng những hành tinh lạ; hay bỏ nhiều thời gian và tiền bạc để di du lịch nước này, xứ nọ-nhưng có mấy ai chịu bỏ ra vài dola để bước qua bên kia đường thăm hỏi một người hàng xóm xấu số vừa bị nạn?
Chúng ta đang sống vào thời đại của “ tốc độ và cơ giới hóa”-thời đại của những robot, những máy điều khiển tư động-cho nên, Tình Thương Yêu cũng đã biến dạng dần theo chiều hướng “ tự động/tốc độ” mà thiếu vắng đi sự rung cảm tự nhiên chân thành từ trái tim của mỗi người. Những lời lẽ Thương Yêu hồn nhiên xao xuyến từ ánh mắt long lanh , từ giọng nói ngập ngừng e thẹn , từ cử chỉ bẻn lẻn rụt rè kia như đã vắng dần. Chúng đã dược thay thế bằng một “ lập trình” sẵn-chúng được lập lại một cách vô hồn, và trở thành một thói quen rất nguy hại.
Tỉnh giác nhận rõ sự chơn/ giả-tà / chánh của những lời Thương Yêu đến với đời sống mỗi người là một thái độ cần có để tự bảo vệ mình và giúp người tránh xa dần tội lỗi ngày càng trở nên trầm trọng vậy!

MANG VIÊN LONG

Thứ Năm, 9 tháng 12, 2010

NGÔI NHÀ MÙA HÈ Truyện Ngắn MANG VIÊN LONG


NGÔI NHÀ MÙA HÈ



Truyện Ngắn
MANG VIÊN LONG




Cánh cổng sắt mở: Tôi bước vào khu nhà, đi trên con đường đất hẹp rợp bóng mát của vườn cây tuy không rậm rạp nhưng cũng che khuất được ánh nắng gay gắt của những ngày hạ đang trùm chụp lên cảnh vật một sức nóng ngột ngạt và những cơn gió cát nồng héo, khô nám da thịt. Vào trong lối đi có bóng mát, lối đi xưa cũ tình nghĩa, khu vườn mấy năm gần gũi như một cõi thiên đường riêng biệt; tôi cảm thấy nhẹ hẫng người, khoan khoái tưởng đã tới rồi một bến nghỉ êm ấm, thấy rồi một giấc mơ đã ám ảnh bao năm.
Khi thấy căn nhà chỉ mở một cánh cửa phía dưới (hai cánh cửa giữa và phía trên đóng im lìm) tôi bỗng dừng lại nhìn thực chậm vào khu vườn, thấy cây cối già cỗi, thưa thớt, và yên lặng quá. Tôi đứng yên, nhìn dò xét từng thân cây, cành lá, cố nhớ lại khung cảnh khu vườn năm trước. Tôi không thể so sánh được với một hình ảnh nào còn giữ trong đầu với sự trống vắng gần như là tàn lụn của khu vườn trước mắt. Có một điều tôi không cần tìm kiếm so sánh là khu vườn bây giờ đã mất đi nhiều màu xanh, nhiều bóng mát, và những tiếng cười. Khu vườn trống và lặng lẽ trong sắc nắng mênh mang. Không có một tiếng cười, lời kêu gọi líu lo hay một bóng dáng lẻ loi nào cạnh những bóng râm thầm lặng kia, mà chỉ có tiếng chim sẻ chuyền cành ríu rít – đó là những tiếng chim hiền từ và yên lặng nhất của mùa hè. Bầy chim sẻ vỗ cánh, bay, chuyền cành, kêu lao xao trên những cành dừa lả tả, những đọt cau cao nhẫn nhục, đám lá mận dày thầm kín nhưng không tạo được một chút cảm tưởng nao nức nơi tôi như cách đây vài phút từ quãng gò giữa đồng nhìn thấy đôi cánh cổng sắt mở rộng. Trong tiếng chim sẻ đoàn tụ, vô tư, hiền hòa đó tôi nghĩ tới sự trở về lẻ loi ngơ ngác của mình, và thấy rằng chưa bao giờ tôi được nghe một tiếng chim buồn bã như thế.
Cả cái không khí bao trùm khu vườn, căn nhà, đã cho tôi linh cảm biết được một điều thực lạ lùng: Gia đình ông Hối đã tản mát (hay chết) từ khi tôi ra đi ? Ý nghĩ đó đã làm bay mất hết những nỗi hân hoan phấn khởi trong lòng tôi, thế vào bằng những nỗi lo sợ viễn vông, có lúc thực kỳ lạ. Tôi không ngớt tưởng tượng ra sự thay đổi của gia đình ông Hối, tiếp nối liên tục và nhập nhằng với từng khúc từng đoạn của dĩ vãng mờ nhạt thấp thoáng tựa những bóng ma vờn lượn đùa giỡn. Dĩ vãng bây giờ trở nên xa lạ dần trong sự nhớ tưởng. Tôi cũng không còn tin được những hình ảnh thoắt hiện trong đầu tôi về cái quá khứ đã sống: Tôi thấy có một điều gì lạ lùng và có vẻ như trong một cơn mộng đã lâu bất chợt nhớ lại. Nó hoàn toàn khác lạ với những gì hiện ra trong mắt tôi, lúc này.
Tôi bước lên mấy bực thềm, khoảng sân măng rộng được quét sạch, trống, yên tĩnh quá đỗi. Mấy chậu kiểng trồng những cây mai Nhật nở hoa vàng, những màu vàng nhạt hẳn trong sắc nắng chói, cũng đượm một màu buồn và lặng lẽ. Tôi nhận ra mấy chậu hoa Uất Kim ngày nào không còn nữa, cả cây hoa Quỳnh mà ông Hối thường săm soi chờ đợi một đêm nào hoa nở, cũng héo tàn đâu mất. Chỉ còn lại những cành Huệ lẹt đẹt ngã rạp trên bờ đất khô. Trước mặt tôi, bên trái, giếng nước, nhà tắm, hàng cau, hàng dừa, cây bưởi vẫn còn đó như một sự chờ đợi cam chịu, một gắng gượng buồn rầu. Hình như nó được phủ lên một thứ mầu sắc chết lặng, thê lương của những cảnh đời xế bóng. Bên mặt, con đường nhỏ dẫn ra phía sau vườn cạnh căn nhà, chìm ngập trong bóng mát hàng keo già, cây me trổ lá non, hai câu sầu đông hoa rụng tím rải rác trên mặt đất. Ngoài bờ rào, phía trước là cánh đồng, con mương ẩn khuất, bên trái và bên mặt khu vườn là mấy căn nhà ẩm thấp khép kín trong sự nghèo khó và cây lá ràu ràu ủ rũ. Trước mắt tôi chỉ có thế, cảnh tượng đơn sơ, trống trải, không mảy may giống một khung cảnh nào trong mơ ước trở về của tôi. Cái náo nức xao xuyến của sự trở về đã chùng thấp, im lặng trong lòng tôi từ lúc chợt nhận ra sự thay đổi của khu vườn, nỗi im vắng ghê rợn của khoảng sân nhà, bóng tối sau cánh cửa mở hờ; tôi cảm thấy tôi đã thất vọng dầu chỉ được gặp Tịch, quây quần bên Thủy và Tiên một đêm trên hiên lầu để hóng gió nồm (hay đợi mặt trăng đỏ rực từ thành phố phía xa). Cây hoa Quỳnh đã mất, ông Hối thực sự rời bỏ chậu hoa mầu nhiệm đó từ bao giờ ? Còn Thủy, những cành Uất Kim mầu hồng trên lọ hoa sứ trắng, và Tiên với xâu chuỗi hoa sầu đông đeo lủng lẳng trước ngực sao nay đã tản mát ở đâu?
Căn nhà tối lờ mờ, tuồng như có một làn gió lạnh thổi luồn qua những cánh cửa buồng hé mở, tôi nghe tiếng tôi gọi, Thủy, Thủy, nhưng không một tiếng động nào vọng lại. Tôi đẩy mạnh một cánh cửa buồng: “Thủy, Thủy ơi…”. Căn buồng dẫn ra phía nhà sau (cũng là chỗ thang lầu) trống trơn, mùi ẩm mốc dạt vào mũi, vệt nắng chiếu xuống từ thang lầu hẹp và cao soi rõ cái vắng lạnh ngột ngạt của một ngôi nhà hoang phế. Tôi nhìn thấy một chiếc chõng tre kê sát chân lầu, mấy tấm áo cũ rách mắc trên vách tường, một ngọn đèn chai nhỏ đặt dưới chân giường sáng đỏ. Phía trong (chỗ ngủ và học của chị em Thủy) cánh cửa sổ mở một nửa ánh sáng xanh nhợt của cây lá hắt vào còn chút bầy biện lúc trước: chiếc bàn học trước cửa sổ, tấm tranh sơn dầu đầu tiên tôi vẽ cành hoa Uất Kim tặng nàng, hai chiếc mắc áo gỗ, tấm ảnh chụp chung ba anh em nàng và tôi trước cổng sắt treo trước vách nơi giường ngủ, và một đôi guốc son cũ dưới chân giường. Cho tới lúc ấy, nhìn căn phòng Thủy, tôi mới cảm thấy gần gũi thân thiết được với ngôi nhà, an ủi đôi phần cho sự trở về của mình.
Tôi bước dần lên những bậc thang lầu hẹp, hi vọng sẽ gặp một người nào đó còn lại (hay Thủy ?) nơi hiên lầu, hay trong gian phòng khách là chỗ tụ họp của bọn Tịch những ngày chủ nhật ở thị xã trở về với một bầy con gái mặc áo sặc sỡ như những cánh bướm trên kệ, trong tủ sách của anh ta. Tôi gọi : “Tịch ơi, Tịch ơi…”, không có Tịch nào ở trên lầu, không có Thủy nào ở chiếc ghế mây sau mái hiên khuất nắng, không có Tiên nào bên cạnh tủ sách chứa bướm của Tịch. Tôi dừng lại trước tủ sách, nhìn lại mấy cánh bướm năm năm trước, những năm Tịch còn say mê bắt bướm và say mê theo đuổi cô giáo có những chiếc áo dài màu lạ lùng như những cánh bướm quí. Nếu tôi ngạc nhiên vì sự mê thích sưu tầm bướm của Tịch bao nhiêu thì tôi coi thường những chuyện tình do anh ta kể lại bấy nhiêu, bởi vì, rất giống với sự mê thích bướm, Tịch đã cho bướm ngửi éther và chích formol, đem phơi ba ngày nắng, không để bay mất một chút phấn, bỏ cả buổi uốn nắn râu chân, cất bướm vào tủ là Tịch xách đèn đêm đêm đi tìm những cánh bướm khác; cuộc săn đuổi tình nhân của anh cũng tương tự như thế. Nghĩa là rất say mê công phu tìm kiếm, nhưng chẳng bao giờ hài lòng hay dừng lại bởi một cánh bướm nào cho dầu anh ta vẫn thường trầm trồ khoe cái đặc sắc của mỗi cánh bướm anh bắt được. Một người thường lấy óc khoa học để suy nghĩ (Tịch là giáo sư toán), nhưng lại ham thích trò chơi sưu tầm bướm thơ mộng đã là điều khiến tôi không hiểu được anh ta cho tới bây giờ. Nhìn những cánh bướm lộn xộn trong tủ kính của Tịch, bất giác tôi nhớ tới một cánh bướm bị anh đem ép vào quyển tự điển dày, ví nó như hình ảnh một cô giáo dạy Việt văn có tên một loài hoa kiêu căng, ưa khinh thị những người tìm tới với cô, và nhất là xem nơi chốn cô hiện ở (là quê hương của Tịch) là chỗ đày đọa, đầy ám khí trong tờ xin thuyên chuyển cuối năm tình cờ anh đọc được. Nhớ tới cô giáo nọ là tôi nghĩ ngay tới lời cô viết trong tờ đơn xin thuyên chuyển với một giọng rặt cải lương mà Tịch thường lập lại, để rồi cười ngây ngất kêu là đáng một kiếp: “Thủy thổ bất hợp hay đau yếu, (sang hàng gạch đầu dòng) thân gái dặm trường dung nhan tàn phai" -dung nhan,nhan sắc đâu có để mà tiêu hao với tàn tạ ?. Nhưng rồi cô giáo nọ cũng đã là một cánh bướm lọt vào tay Tịch, nhưng không là cánh bướm được anh ta cho ngửi éther, chích formol, uốn nắn cẩn thận mà chỉ đem ép vào quyển tự điển khô lép xấu xí. Ghét việc chơi bướm của Tịch, tôi yêu việc ép hoa của Thủy: Nhìn nàng lẩn thẩn ngoài vườn khe khẽ cắt những cánh hoa tươi mầu rồi tỉ mỉ trải ép vào những mảnh giấy có khói lưu huỳnh, dịu dàng dán vào những tấm giấy có giấy bóng bao bọc, tôi nghĩ tâm hồn Thủy mới thực là một tâm hồn lãng mạn, hồn nhiên. Suốt những ngày nghỉ, nàng dành hết cho việc tìm hoa, ép hoa, làm việc một cách lặng lẽ và say đắm. Có lần tôi hỏi Thủy ép hoa làm gì nhiều thế, nàng ngẩng lên cười sẽ sàng, rồi nói: “Thủy thương hết các loại ha dầu xấu hay đẹp, không biết sao Thủy thấy quyến luyến và thương chúng quá, anh à”. Từ đó, nếu tôi miễn cưỡng xách đèn theo Tịch đuổi bướm, thì tôi cảm thấy sung sướng, hạnh phúc hơn khi cùng Thủy đi kìm kiếm những cánh hoa góp lại cho nàng đem ép vào giấy. Lâu lắm, chúng tôi dở lại những cánh hoa cũ, cùng nhớ tới những dịp gần gũi xưa, mà nghe lòng tràn ngập xúc cảm mênh mang.
Bây giờ là căn lầu trống, bộ salon cũ kỹ để giữa nhà, phía sau là chiếc bàn thờ lạnh ngắt hương khói, cánh cửa mở ra căn phòng phía sau đóng kỹ. Trên tường, những bức hoành phi, những tấm gương mừng ngày xây căn nhà của ông Hối, khung kính lồng cái bằng “Chứng nhận hành nghề Đông Y Sĩ”, và một chiếc đàn guitar đứt gần hết dây của Tịch. Tôi không nghe được một tiếng động nào ngoại trừ tiếng chim sẻ kêu chim chíp trên mái hiên lầu, thỉnh thoảng có tiếng vỗ cánh bành bạch của đàn bồ câu phía góc sân lầu. Sự hoang vắng của ngôi nhà giữa một thôn xóm khi quạnh không khiến tôi ghê sợ bằng hình bóng dĩ vãng được nhớ tới từng lúc trong đầu. Tôi đặt lưng xuống tấm phản kê gần cửa lớn, gió nồm từ hướng biển thổi ngây ngây, tôi nhắm mắt nghĩ có lẽ tôi đã buồn ngủ quá rồi. Nắng hanh và gió nồm càng khiến cho đôi mắt cay xót, và chiếc đầu tê rần của tôi nhức buốt hơn nữa. Tôi lừ đừ trôi dần vào một giấc ngủ mỏi mệt như một cơn mê thiếp chếnh choáng.
-Cậu, có phải cậu Năm không?
Tôi mở mắt:
-Ai đó ?
-Cậu Năm à ?
-À, bà Dư, cháu Năm đây mà, trưa nay bà đi đâu vậy?
-Trời, cậu Năm…
Bà Năm chảy nước mắt, ngồi phịch xuống phản, chiếc miệng mếu máo rỏ xuống những vệt nước trầu đỏ. Tôi đứng dậy, mở rộng hai cánh cửa căn lầu, thấy nắng vẫn còn vàng chói trên những đọt dừa dưới vườn. Khu nhà yên lặng.

Như thường lệ sau giấc ngủ trưa tôi trở ra đi thơ thẩn quanh hiên lầu một lát dầu không biết đi để làm gì. Cảnh vật phía dưới bao bọc quanh ngôi nhà, bây giờ không còn một chi tiết nào làm tôi chú ý. Phía sân sau, cánh đồng rộng, xóm nhà thấp xa xa, những con đường tre rũ bóng đìu hiu, bầy chim sẻ đu đưa trên những đọt dừa. Bên trái và bên phải là mấy ngôi nhà tranh cũ, ẩn mình trong những cây lá rườm rà, khép kín. Trước mặt, khu vườn quen thuộc thưa thớt, cánh đồng phẳng lì, con mương khô nước, thành phố xa xa được trông thấy bởi hai ngọn tháp cao đỉnh nhà thờ trắng bạc nhọn hoắt như một thỏi kim loại, và quốc lộ có những chiếc xe chạy suốt. Tiên đã có chồng, ba đứa con, đứa con gái lớn tên Trang, đứa con trai kế tên Tý, đứa mới sinh tên Tèo. Năm năm, ba đứa con, vợ thứ của một ông đại úy đi chợ có xe đưa rước ngon lành, trong nhà có kẻ hầu người hạ. Còn Tịch, sau chuyện lôi thôi với một cô gái có con, bỏ nhà đi bặt không thấy trở lại; quên hẳng những cánh bướm còn nằm im lìm trong tủ sách. Sau khi Thủy mất vì buổi sáng sớm súng nổ đột ngột, gia đình ông Hối theo con gái, con Tiên, dời nhà vào Cam Ranh sinh sống. Bà Dư, người u già trên hai chục năm ăn ở trong gia đình ông Hối được ở lại để giữ ngôi nhà, và lo nhang đèn cho chiếc bàn thờ. Năm năm, Tiên có chồng ba con, Tịch tủi hổ bỏ xứ, gia đình ông Hối phân tán, Thủy còn lại với nấm mồ bên kia cánh đồng trước nhà. Năm năm, tôi trở về, căn nhà trống, bà Dư già nua lú lẫn hơn, đàn bồ câu sinh thêm mấy lứa, những cánh hoa Uất Kim tàn lụn , tập vở ép hoa không biết cháy nát nơi nào, những con bướm nằm yên lặng trong tủ kính, hoa sầu đông rụng nhiều nhưng không có bàn tay nào nhặt để kết thành vòng chuỗi. Năm năm, tôi trở lại sống trong ngôi nhà với bà Dư ngày hai buổi quét dọn, thắp hương, nằm dài trên thềm nhà nhắc chuyện con Tiên, con Thủy, thằng Tịch, ông Hối như chuyện đời xửa đời xưa nào.
Đàn bồ câu bỗng vỗ cánh bay lên, rồi sà thấp xuống hiên lầu phía trước. Lúc ông Hối đi, cậu biết không, đàn bồ câu chỉ được sáu con, bây giờ đã trên hai mươi con rồi. Tôi chợt để ý nhìn những con chim bồ câu, lông đen hoặc đà, ngạc nhiên nghĩ sao lại toàn một mầu tối như thế. Không có một con nào có mầu trắng hay xám. Mầu lông sẫm đen, giống như chiếc lồng gỗ cũ mốc, mục nát trên hiên lầu. Mầu lông cũng rất giống những vách tường rêu, những căn phòng tối, khoảng thời gian năm năm mờ mịt của gia đình ông Hối. Bất giác tôi cho rằng, đàn bồ câu, những con chim buồn bã, đã sống trong một căn nhà âm u, bên cạnh một bà già cô độc sầu thảm, và bây giờ có tôi. Tôi trở lại với những buổi chiều rủ một bầy trẻ nhỏ tìm tới thăm mộ Thủy, thắp cho nàng một cây nhang, gửi cho nàng một cánh hoa lạ, thầm thì cùng nàng những lời nhắn nhủ tuyệt vọng nhất của đời sống. Tôi chợt hiểu được rằng tại sao những tấm tranh tôi vẽ trong thời gian ở đây bao giờ cũng có nhiều tảng mầu đen, những bóng tối mờ loãng, hay từng bóng dáng nhập nhòa ám ảnh. Tôi nghĩ, có lẽ chiều nay tôi sẽ vẽ một đàn bồ câu đen, trên nóc hiên nhà rêu đen để tặng cho Thơm, tặng một cuộc sống cũng âm thầm đen tối.
Hai chị em Thơm từ ngõ bước vào nhìn thấy tôi ở hiên lầu, cả hai ngước lên cười, rồi cắm cúi đi. Trên tay thằng Tuấn nó cầm theo chiếc ná cao su. Thơm cắp quyển vở học. Thơm và Tuấn là hai người bạn quí của tôi, tôi có thể dừng vẽ bất cứ lúc nào có mặt Thơm hay Tuấn, để hoặc dạy Thơm học, hoặc cùng Tuấn đi bắn chim quanh vườn. Từ ngày quen được chị em Thơm, được gần gũi trò chuyện, cùng rủ nhau đi dạo xa trong xóm nhà bên kia cánh đồng phía sau (hay tới thăm mộ của Thủy), tôi đỡ thấy bứt rứt bồn chồn với ý định ra đi. Những giấc mơ kinh hãi bưng bít cũng đỡ vây phủ ám ảnh từng giấc ngủ mỗi đêm. Nghe tiếng chị em Thơm cười từ dưới thang lầu, tôi đi vòng trở ra phía sau.
Tiếng Thơm vọng lên :
-Anh Cũng, thằng Tuấn nói rủ anh đi bắn chim, anh đi không?
Tôi cười:
-Đi liền.
Tuấn mừng rỡ:
-Thấy chưa?
Thơm giận :
-Thấy gì ? Anh Cũng, anh không thích dạy em học à ?
Tôi nói:
-Sao lại không? Bộ có chuyện gì nữa?
Thơm giọng còn hờn lẫy:
-Sao anh kêu đi bắn chim ?
-Đi bắn chim cũng thích mà dạy em học cũng thích.
-Bây giờ anh thích cái nào hơn ?
Tiếng Tuấn nhanh nhẩu:
-Đi bắn chim, anh Năm.
Thơm đưa tay bịt miệng em lại, cười chờ đợi.
Tôi nhìn đôi mắt Thơm, đôi mắt sáng ánh chòng chọc nhìn thẳng vào mắt tôi, tia nhìn nửa trìu mến, nửa trách móc nũng nịu. Đôi mắt nhìn lâu, tôi thấy có nét giống Thủy, nhưng không tìm ra ở nét nào rõ ràng. Nhiều lúc tôi cố tìm kiếm vài điểm tương tự nhưng cũng không tìm được. Hình như là ở đôi tròng đen đứng yên mỗi khi ngước nhìn, hay tia ngó thẳng tắp chờ đợi lặng lẽ ? Tôi vẫn thường lẫn lộn đôi mắt Thủy và Thơm trong những lúc nghĩ tới những tấm tranh sắp vẽ, hoặc lúc ngồi nhớ lại nàng. Thơm chỉ bằng tuổi Tiên năm năm trước, mười bảy tuổi, học lớp tám, trễ mất hai năm thi vào đệ thất, có giọng hát tuyệt vời, và một mái tóc óng mượt sung mãn. Tuổi lớn và vóc dáng Thơm so với Tiên năm năm trước xấp xỉ bằng nhau, nhưng những bài hát khiến cô bé trở thành một thiếu nữ dễ sầu mộng, trưởng thành quá lứa tuổi của mình. Chính những bản nhạc tình cờ Thơm hát cho tôi nghe, ngợi ca một cuộc tình hoặc than thở cho những dang dở, muộn màng, với một giọng yếu mềm tha thiết của từng hơi thở xao xuyến từ tâm hồn bén nhạy xúc cảm đã làm tôi ngạc nhiên, rồi dè dặt gần như là sợ hãi. Nhưng Thơm cứ quấn quít bên tôi (như tôi đã không thể sống ở ngôi nhà này mà vắng chị em Thơm) mỗi lúc tạo thêm những gắn bó khó rời xa, hay quên lãng. Thơm đã kêu tôi xin dạy học cho những trường tư thục ở thị xã để cô bé được sống gần tôi như lâu nay. Nàng còn kêu tôi nếu không muốn dạy học, thì ở nhà vẽ, để hai chị em nàng mang xuống phố bán. Như vậy cũng sống được chớ anh, em có nghe người ta nói, bán một tấm tranh, có cả chục ngàn lận cơ. Một tháng, anh chỉ cần vẽ một tấm, cũng dư giả rồi, phải không. Những điều Thơm nói nhắc tôi nhớ lại những ước mộng của Thủy năm nào : Nàng cũng kêu tôi ở nhà vẽ, mở phòng tranh mỗi tháng, rồi thì còn bao nhiêu thì giờ cùng nàng đi tìm những cánh hoa lạ. Năm năm qua, tôi vãn là một họa sĩ nghèo, (và hiếm có dịp cầm cọ, cầm dao, cầm những thỏi mầu) chỉ vẽ nên những bức tranh buồn thảm của đời mình. Tấm tranh cành hoa Uất Kim ngày nào còn treo trong phòng Thủy, có lẽ là bức tranh tươi sáng nhất của tôi từ ngày dời khỏi trường mỹ thuật. Bây giờ, bức tranh rực rỡ đó đã còn lại lạnh lẽo trong căn phòng ẩm mốc của Thủy như một sự nhắc nhở âu sầu nhất cho tôi. Tôi không thể ngờ rằng, năm năm sau, tôi nhìn lại tấm tranh với sự sợ hãi. Tôi không dám nhìn lại bức tranh, cũng như không dám cầm lại đôi guốc son dưới chân giường Thủy; tôi chạy trốn kỷ niệm với tâm trạng khốn khổ ray rứt cùng cực. Nhớ Thủy, tôi thương Thơm, chừng như tôi cũng sợ cô bé bỏ đi sớm sủa mau lẹ như Thủy vậy.
Thơm hết nhìn tôi với đôi mắt dỗi hờn, nàng nhìn tôi bằng nụ cười quấn quít. Nàng hỏi: “Sao? Anh thích cái nào hơn hết ?”.
-Thích cả hai.
Nàng bỏ chạy vào trong phòng, Tuấn cười lộ hai chiếc răng gãy, tôi trở vào cười : “Dạy học có lợi hơn đi bắn chim, bắn chim có lợi hơn vẽ tranh nhưng bây giờ trời còn nắng, anh dạy em học, rồi lát xế chiều mới đi với Tuấn được chưa ?”.
Tôi ngồi vào chiếc ghế đối diện Thơm, cố nhìn vào đôi mắt bẽn lẽn giấu giếm nàng, giọng trêu chọc:
-Sao ? Vừa ý chớ ?
Thơm cười :
-Chưa .
-Còn đòi hỏi gì nữa ? Được voi đòi tiên đâu có được, cô ?
-Bây giờ là nửa mùa hè rồi, hết mùa hè anh đi, bà Dư nói lại thế, phải không?
-Đừng có nghe lời bà Dư nhiều, bà ấy lẫm cẫm quá rồi, cả ngày chỉ biết nói tới những con cá thu ảu, cá thu mùa.
-Và chuyện chị Tiên có ba đứa con, đi chợ có xe Jeep đưa rước, đàn bồ câu sinh thêm mấy lứa, những con bướm của anh Tịch…
-Thôi , coi như cho qua chuyện bà Dư đi, đợi lúc nào hết chuyện hãy nhắc lại, nếu nhắc hoài thì cứ còn hoài.
-Anh muốn nói chuyện gì ?
-Chứ em qua đây định nói chuyện gì ?
-Nhờ anh chỉ một bài toán .
-Anh dốt toán, chỉ cái khác đi. Đời anh ghét tính toán nên không học toán.
-Mấy bài luận, giảng văn, Anh văn anh đã chỉ hết còn gì ?
-Hết rồi thì thôi, anh được nghỉ, đi bắn chim nhé ?
-Không được.
-Có lẽ thằng Tuấn đang theo dõi mấy con chim sẻ ở hiên lầu.
-Nó đi bắn cả ngày ngoài nắng nhưng không có một con chim nào để nướng.
-Em muốn ăn thịt chim lắm à ?
-Sao lại không, chim sẻ nướng với lá chanh và tiêu ớt thơm tuyệt lắm.
-Được, để khi nào anh bắt trộm vài con chim bồ câu, bà Dư không bao giờ đếm lại mỗi chiều chiều đâu, đừng có sợ.
-Thịt chim, nhất là chim bồ câu bắt trộm, ăn không ngon gì đâu.
-Cứ nghĩ là anh bắn được, đừng nghĩ anh bắt trộm thì phải ngon hơn chim sẻ chứ.
-Em chịu, nghĩ vậy không được, cho dầu có nghĩ tạm trong vòng vài mươi phút để nuốt xong con chim.
-Em nói nghe có vẻ tu hành quá đi.
-Má em nói lúc nầy cần phải tu hành.
-Bắt vài con chim để thết em một bữa trước ngày anh đi cũng là chuyện tu hành mà.
-Nói vậy thì em không bao giờ muốn ăn thịt bồ câu.
-Sao vậy ?
-Em không muốn anh đi.
-Em muốn sao ?
-Anh ở lại.
-Tới khi nào ?
-Ở luôn.
-Luôn là bao lâu ?
-Suốt đời.
Tôi nghe tiếng thằng Tuấn reo mừng ở phía hiên lầu sau, chưa kịp chạy ra nó đã xách một con chim sẻ còn rỉ máu ở đầu chạy ùa vào nhà. Con chim chết tươi tắn. Tôi thoáng thấy Thơm có vẻ không bằng lòng. Tôi nhìn Tuấn, cười: “Bây giờ tới chiều gắng tìm thêm vài con nữa để chị Thơm nướng với lá chanh và tiêu ớt”. Thơm nhìn con chim sẻ nhỏ choắt, buột miệng nói : “Tuấn, tội nghiệp nó”.
Tuấn vẫn còn giữ nét hớn hở, nhìn tôi :
-Chị đừng có ăn.
-Ừ. Ai thèm ăn mà nói.
-Không ăn thì hai anh em mình ăn, rán đi đi tìm thêm nữa đi, lát nữa anh sẽ dẫn ra phía mấy đám ruộng chín thế nào cũng nhiều.
Tuấn thảy con chim trên mặt bàn, trước mặt Thơm, bỏ chạy ra ngoài. Con chim chết. Nó nằm ngoẻo đầu. Máu đã khô đặc. Thơm giận dỗi đứng dậy, đi tới tủ bướm. Tôi biết rằng con chim Tuấn vừa bắn chết chỉ là một cái cớ để nàng buồn. Lúc nói xong câu “Em không muốn anh đi”, gương mặt nàng đã đổi khác một cách đột ngột. Giọng nói khô cứng, ánh mắt lảng tránh ngơ ngác, tay vẽ vu vơ trên mặt bàn những vòng tròn băn khoăn; tôi nghĩ có lẽ cô bé đã biết buồn và nhớ khi vắng tôi bên đời sống vắng vẻ nàng. Tôi bỗng nhớ lại hết thảy những dịp gần gũi nàng từ buổi chiều ở đầu bờ mương trước nhà, những buổi trưa ở hiên nhà vắng bên bà Dư, từng buổi chiều tới thăm mộ Thủy, những sáng sớm quây quần trên hiên lầu đợi nắng, những bài học dạy cho nàng vào ngày chủ nhật, mấy tấm tranh vẽ lộn xộn những cành hoa Uất Kim và đôi mắt nàng mở lớn như đôi mắt Thủy còn lại trong trí nhớ đã năm năm. Tất cả những hình ảnh rời rạc và nhỏ bé ấy, không ngờ đã là một chất keo đằm thắm, gắn khít hai tâm hồn chúng tôi; tôi cũng cảm thấy dự định ra đi của mình thực ngậm ngùi, chua xót. Giấc mộng hôm nào nàng nói cũng như Thủy đã vẽ vời năm năm trước liệu có thể giữ tôi lại được nơi căn nhà hiu quạnh này chăng ? Hay đó chỉ là những mơ tưởng lạ lùng mà ngôi mộ Thủy mới chính là một đời sống thực tế? Những cánh hoa lạ, những ước mơ đẹp, những dự định khiêm tốn của Thủy thoắt mất trong một buổi sáng có súng nổ. Súng nổ trong xóm, và nàng đã chết. Từ đó căn nhà trở nên hoang vắng. Bà Dư còn lại chỉ để thắp hương cho chiêc bàn thờ lạnh lẽo hay quét dọn căn nhà trống trải. Thực tế giản dị, khô khan, và tàn nhẫn như tiếng nổ, nhưng có lẽ mãi mãi nó bám chặt lấy đời người, để thiêu cháy hết những mơ ước như Thủy, như nàng. Như Tiên với xâu chuỗi hoa sầu đông. Như tôi với bức tranh cành hoa Uất Kim. Như Tịch với những cánh bướm loạn sắc. Như ông Hối với cây hoa Quỳnh. Như tất cả. Sống trong sự cô tịch và lẻ loi, tôi nhìn thấy rõ hơn rằng, chẳng qua đời sống cũng vắng vẻ và buồn rầu như căn nhà, đàn bồ câu đen, đôi guốc son, tấm tranh cành hoa Uất Kim, những con bướm trong tủ kính, và ngôi mộ ngập cỏ may của Thủy bên kia cánh đồng. Tôi biết nói sao cho Thơm hiểu được rằng, dầu rất yêu quí nàng, nhưng tôi không thể ở lại trong căn nhà nầy lâu hơn nữa. Một mùa hè.
Tôi nói:
-Thơm, em giận anh cái gì vậy ?
Nàng quay lại, ngước nhìn lên, đôi môi mỉm cười :
-Tại sao anh đi ?
Tôi đã ôm choàng qua hai vai rung động nàng :
-Em biết tại sao không ?
-Không.
-Vì quá yêu em, em có tin không?
Nàng cười khẽ. Đôi môi mím chặt. Đôi mắt nhìn thẳng. Tôi biết nàng nghi ngờ hay không bao giờ hiểu được tôi. Tôi cúi hôn thật lâu lên tóc, vai, má, cổ, môi nàng. Có lẽ những nụ hôn nồng nàn của tôi giúp nàng hiểu được thêm những gì tôi đã nói. Nàngquay phắt lại bỏ hai tay lên vai tôi, nhìn tôi, cười. Vừa lúc đó, khi tôi ôm choàng Thơm bé nhỏ trong đôi tay say đắm, thì thằng Tuấn chạy vào. Nó cầm trên tay một con chim sẻ, và cười lớn: Anh Năm, anh Năm…

Từ phòng tắm nhìn qua ô cửa nhỏ, tôi trông thấy bà Dư từ ngõ nôn nả bước vào, tay bưng chiếc rổ nhỏ, tôi biết bà đi lấy bánh ướt hay bánh bèo ở quán bà Thìn như mọi buổi sáng. Tôi thoáng bắt gặp một ý định quan trọng là không nói cho bà Dư một lý do nào về sự ra đi của tôi vào buổi sáng nay. Từ trước, tôi nghĩ sẽ nói cùng bà rằng tôi hết thời gian nghỉ phép phải ra hội đồng y khoa vào cuối tháng, không thể ở mãi đây, và vì lý do an ninh, nên tôi phải dời khỏi ngôi nhà này trước khi hết mùa hè. Chỉ có những điều cụ thể và giản dị có thể giúp bà hiểu tôi đôi chút, bởi vì, chắc chắn là bà không hề để ý (hay hiểu được) tấm tranh vẽ cành hoa Uất Kim trong phòng Thủy, những cánh bướm của Tịch, hay những cánh hoa sầu đông rụng đầy con đường quanh nhà, ngôi mộ Thủy bên kia cánh đồng, hình ảnh Thơm từng ngày quấn quít bên nỗi ám ảnh khổ sở của tôi. Bà không hề nghĩ được tôi phải dời xa ngôi nhà mùa hè mát mẻ nầy chỉ vì đôi guốc son cũ của Thủy còn dưới chân giường. Tóm lại, nếu tôi có kể hết những lý do thực sự khiến tôi nuôi dưỡng quyết định như một kết luận kỳ quặc, nói dài dòng từ đêm này qua đêm nọ, chắc bà cũng sẽ ngồi im lặng buồn bã xoáy trầu, tới lúc mỏi mệt ngã lăn ra hiên nhà ngủ. Như vậy, tôi sẽ vô tình để lại cho bà nhiều băn khoăn vô ích, trong những ngày tháng lúc cúc sống một mình của bà. Phải, tôi sẽ yên lặng ra đi, tự nhiên và vui vẻ, để bà con nuôi giữ mong ước một ngày nào tôi sẽ quay trở về như hai tháng trước mà dõi mắt ra ngõ đợi chờ. Có những điều chúng ta không thể không nói dối (hay tỏ ra) với tuổi già, mà nghĩ rằng đó là một việc làm tốt. Trường hợp tôi với bà Dư, đối với một tấm lòng tin tưởng và yêu mến, tôi chắc không còn cách nào hơn để bà yên lòng, còn tôi ra đi không mang theo một niềm ân hận nếu chẳng để lại cho bà một lời hứa hẹn vui vẻ nào. Tuổi già, họ cần có ảo tưởng để sống cho đỡ khổ sở. Còn tôi, chắc chắn là không thể giữ lại một ảo tưởng xa xăm nào, để tự làm khổ sở đời mình nữa: Tôi bị buộc quá chặt vào thực tế.
Những gáo nước vừa từ giếng đổ vào bồn tắm mát rượi vỗ về tôi trong nỗi hân hoan gần như là hạnh phúc. Tôi nhớ tới Thơm đêm hôm qua, hình ảnh nàng trên sân lầu bé bỏng và hiền từ như những con chim sẻ chui rúc dưới mái hiên, sự cuồng nhiệt cuộn tròn bừng nóng, nỗi buồn nản tuyệt vọng cùng cực của tôi khi nghe tiếng nàng thì thầm. Quả thực nàng đã cho tôi hiểu được trọn vẹn ý nghĩa cao cả mầu nhiệm cuả tình yêu, trong niềm hoan lạc hiến dâng đời đời mà trước đây dầu có sống lăn lóc hay tưởng tượng tôi cũng không thể hiểu được hết. Tôi nhớ là tôi đã nghĩ không tốt về nàng khi nàng đòi ở lại với tôi, lời cầu xin khẩn thiết và chân thực của nàng khiến tôi nghĩ nàng đã sống chót vót những giây phút bất thường, mù quáng nhất của một đời con gái. Tôi vẫn không tin nàng, cho tới lúc nàng khóc nức nở sau góc hiên lầu. Tôi yêu quí nàng như yêu quí hình ảnh Thủy với những cánh hoa lạ, tấm tranh vẽ cành hoa Uất Kim, đôi guốc son cũ dưới chân giường; Tôi đã đứng thực xa, ngắm thực kỹ, và vẽ thực say mê. Tôi yêu nàng (cũng như Thủy) bằng những thỏi màu sắc, bằng sơn cọ, bằng trí nhớ và kỷ niệm của một tâm hồn biết sắp xếp thứ tự giá trị của mọi vật trong đời sống mình, chớ không bằng đôi mắt hay đôi tay, lời nói hay hành động mờ ám. Tôi không muốn trong đời sống tôi lại có một hình ảnh tội lỗi nào về tình yêu, không đọng một vết đen nào của kỷ niệm. Tôi ghê sợ sự lừa dối của trí óc, dĩ nhiên, tôi cũng rất lờm tởm hết thảy những dối gạt thường tình. Vậy mà Thơm đã ở lại bắt tôi phải nghĩ tới cái ước muốn được gần gũi, lòng yêu mến một đứa con có mặt bên đời sống nàng, như cũng là niềm hân hoan sung sướng của tôi.
Nàng đã nói:
-Nếu anh đã nói yêu quí em, thì anh hãy tới cái ước vọng duy nhất của em, trước ngày anh đi xa.
Tôi phân giải:
-Anh không biết có thể nói sao cho em hiểu rằng em thực đã mù quáng và bồng bột khi nghĩ tới một đứa con như một hạnh phúc có thể cầm giữ mãi trên tay. Rồi có ngày, chắc là rất gần, em sẽ thấy lời anh nói là đúng.
-Nếu anh nói dối là để an ủi em thì có thể được, nhưng thực sự là những ý nghĩ chân thành, thì anh chưa hề yêu quí em bao giờ, em nghĩ vậy.
-Em có quyền nghĩ vậy, nhưng anh xin lỗi. Có lẽ anh còn nghĩ tới em quá nhiều điều tuyệt vọng. Em hãy nghĩ là anh rất chân thành.
Tôi nhớ bóng đêm bằn bặt và những cơn gió biển thổi rì rào dưới khu vườn. Bên cạnh tôi, Thơm im lặng như một cái bóng nóng bỏng và tha thiết. Chúng tôi đã trải qua một đêm đắm đuối, sống trong những giờ khắc cuồng nhiệt và thiêng liêng nhất của đời sống; cả tôi và nàng, chúng tôi đều nhìn thấy hình ảnh một đứa con. Đêm tối, gió nồm, sự hoang vắng không cùng của đêm thôn dã và tiếng chim kêu đêm rời rạc trong khoảng không mù mịt đã bao chặt lấy chúng tôi, cuống quít và ngủ thiếp êm đềm. Đôi mắt tôi nhắm lại, khép chặt lại với bầu trời đầy sao lấp lánh trên cao.
Bà Dư hỏi:
-Cậu đưa con Thơm đi học à ?
Tôi nói:
-Không, cháu đi.
Bà ngước nhìn tôi:
-Cậu đi đâu? Có về ăn cơm không?
Tôi cười:
-Cháu đi Sàigòn, không ăn cơm.
Bà bước lại gần chỗ tôi đứng, giọng lắp bắp:
-Cậu đi Sàigòn à ? Đi Sàigòn…
Tôi cười:
-Thôi cháu đi, bà ở lại mạnh giỏi.
Tôi quay ra cửa thực nhanh khi thoáng thấy ở đôi mắt bà đỏ rần lên, hình như đã có một màn nước mắt mờ trong đôi mắt bà dần bé nhỏ lại. Gương mặt bà nhăn nhúm hơn, làn da nhăn nheo rung động, chiếc miệng mở ra nhưng không nói được tiếng nào. Tôi có cảm tưởng rằng người bà yếu xịu, đôi chân lụn dần xuống, và toàn thân bà lay lắc, lảo đảo.
-Cậu, cậu Năm.. còn những thứ này nữa ?
-À, cháu quên, bà gửi cho Thơm giữ giúp cháu, nói sẽ có một ngày nào đó, cháu trở lại.
-Cậu Năm…
-Bà nhớ nói giùm cháu, có lẽ cháu sẽ trở lại, nhưng không biết ngày nào .


Tháng 10.1971
MANG VIÊN LONG

Thứ Ba, 7 tháng 12, 2010

ĐỌC " BÀI HÁT NGÀY VỀ " Thơ TRẦN HUIỀN ÂN/ Bài Viết Mang Viên Long


BÀI HÁT NGÀY VỀ


Thơ
TRẦN HUIỀN ÂN



CUỘC HÀNH TRÌNH THẦM LẶNG TRỞ VỀ CHƠN TÂM

Bài Viết : Mang Viên Long


TÔI có duyên được đọc thơ Trần Huiền Ân từ những sáng tác đầu tiên trên tạp chí Bách Khoa, tập thơ đầu tay THUYỀN GIẤY, cho đến những sáng tác đều đặn, những tập thơ vừa được xuất bản trong vài năm gần đây. Bên cạnh cái duyên thơ ấy, tôi cũng được có cái duyên quen biết, thân tình với anh (và cả gia đình) trong những năm tôi về dạy học tại Tuy Hòa, Phú Yên. Chính vì nhờ hai “trợ duyên” đặc biệt, thâm sâu ấy tôi rất hiểu anh và thơ anh… Bài thơ “Bài Hát Ngày Về” đã thực sự làm cho tôi thấy được cái mới, cái chuyển hóa tâm thức trong anh đang nẩy mầm, đang hướng về tâm linh, về bản chất hồn nhiên – về cái sinh hoạt nhiệm màu mà theo tư tưởng Đạo Phật gọi là “Phật Tánh”, và nhà Thiền gọi là “Bản lai diện mục” của chính mỗi con người, mà với cái tâm điên đảo, lăng xăng dính mắc… không thể hiểu và tìm thấy ra được.
Nhà thơ đã bắt đầu có giây phút (hay chỉ vài “sát na” thôi) nhìn lại nội tâm, nhìn lại “cái đích thực là mình, tuy rằng cái tâm (hay dòng sông dòng suối tâm linh) đã vì bao đổi thay, bao gian truân của cõi đời vô thường thiêu đốt gần khô cạn:


Ta ngồi lại soi xuống dòng suối rách
Vốc nước lên kỳ cọ mặt mày.


Đúng là anh đã có giây phút tuyệt vời mà không phải ai cũng có thể làm được. Có ai trong chúng ta có giây phút nhìn lại tận cội nguồn của chính tâm ta, để tự xét, tự hỏi một cách trung thực, nhi nhiên như thế chăng ? Kỳ cọ mặt mình cũng chính là kỳ cọ Tâm mình.
Anh cũng đã nhận ra- sau khi cái Tâm đang dần trở lại trong sáng qua sát na “đốn ngộ” tự tâm: Rằng đời người là quá ngắn ngủi, trăm năm ở cõi ta bà cũng chỉ như “mộng, huyễn, bào, ảnh” ; con người ghé đến cõi trần với hai tay trắng và lúc trở về với hư vô, cũng chỉ có từng ấy mà thôi ! Đó là “Tánh KHÔNG”- sắc tức thị không- tư tuởng cốt lõi của Phật giáo.
Tôi cho giây phút chánh niệm ấy vô cùng quý báu bởi vì, tu sĩ quên cả đời học tập kinh sách, qua bao giới luật khổ hạnh, cũng chỉ mong “tự chứng” được như thế : Lòng từ bi chân chánh cũng bắt nguồn từ đó mà phát sinh.
Bắt nguồn từ cái “thức tỉnh” (hay nói theo Đạo Phật là giác ngộ ban đầu) nhà thơ đã ngược dòng thời gian (thời gian của tâm linh) để tự vấn lòng mình:

Giá như người xưa … gác gươm sườn đá
Tháo đôi giày cỏ thả trôi
Cởi áo vắt vai cười ha hả
Vời trông bốn hướng đất trời…


Lại có chút lòng tự sám hối : “giá như người xưa”. Nếu “người xưa” (một hình ảnh phân thân của tác giả ở quá khứ) sớm tỉnh giác, sớm hiểu ra cõi đời là “xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàn”, là “vô thường và vô ngã”, tất cả pháp hữu vi đều giả tạm (Kinh Kim Cang Bát Nhã : “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”. Kinh Đại Thừa Kim Cang : “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ diệc, như điện”), thì đã sớm trở về với cội nguồn trong sáng, an tịnh của Tâm mình rồi. Đã “cởi áo vắt vai… vời trông bốn hướng…”.
Nhưng thực tế thì không được như vậy. Hay nói theo triết lý nhà Phật thì nhà thơ đã bị “bức màn vô minh từ muôn ngàn kiếp” che phủ… Rồi phải tranh giành, bon chen, được mất, thành bại… Cuối cùng, khi chợt tỉnh “giấc mộng Nam Kha” ấy thì “Ta một kẻ hèn”. Ý chữ “kẻ hèn” ở đây phải được hiểu : Ta đã mù quáng vì vô minh, tham ái, sân si, nên không hiểu ra được cái Tâm thanh tịnh bản nhiên, hằng có, hằng sáng trong ta đã bao lâu, để không xứng đáng với “con người đích thực” giống như gã cùng tử con nhà giàu sang quyền quý đã “quên hạt châu vô giá trong thân” để đi lang thang sống đói khổ trong “Phẩm Thí Du” của “Kinh Pháp Hoa” vậy.


Ta, một kẻ hèn – kẻ hèn đời mới
Hèn, không đáng mặt kẻ hèn
Đức bạc tài sơ, bảy chìm ba nổi
Sao còn vất vả đua chen ?


Tôi đã rất kinh ngạc ( và thích thú ) khi được nghe lời tâm sự (cũng là lời tự thú, lời sám hối) quá đỗi khe khắt, nghiêm túc, tận cùng nỗi “tỉnh thức” của nhà thơ. Đúng như lời các vị Thiền sư đã từng nói : “Có giác mới có ngộ”. Không giác thì chẳng bao giờ ngộ được. Ấy là lẽ huyền nhiệm không thể lấy lời lẽ, ngôn từ mà bàn luận vậy ! Có thể gọi đó là “Trí tuệ vô lậu”.
Sau giây phút “phản tỉnh” với tâm mình một cách rất trung thực, rất can đảm (vì không phải ai cũng dễ làm), nhà thơ đã lóe sáng niềm vui, niềm an lạc – có thể gọi đó là nguồn “Pháp hỉ” (nhờ hiểu –giác ngộ Phật pháp mà có niềm an vui, hạnh phúc).

Dãy đồi bên kia là lau là cỏ
Có cây đa già tỏa mát trăm năm.


Kinh Phật có dạy : “Biển khổ mênh mông, quay đầu là bến”. Bên này là vô minh, bên kia là giác ngộ. Chỉ biết hướng về, quay lại – hay vượt qua “bên kia đồi” là sẽ có an vui, thanh tịnh ; sẽ không còn quay lăn trong sinh tử luân hồi, không còn “hơn, thua, được, mất”, không còn có khổ đau, phiền não do tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến quấy nhiễu …
Ở đây, qua đến giai đoạn tâm thức đã có chút lóe sáng, chút thanh tịnh hồn nhiên, mà nhà thơ vẫn hãy còn bị ray rứt, áy náy, hoang mang về “cái nghiệp” cũ của mình một cách hết sức đáng trân trọng :


Giá như người xưa … cùng bầy trẻ nhỏ
(Mặc áo Huyền Đoan đội mũ Chương Phủ)
Múa ca vui với trăng rằm.

Nếu như (lại nếu như) thuở xưa sớm tỉnh giác, sớm hiểu “tất cả các hành đều vô thường và khổ đau” (Kinh Pháp cú), mặc áo Thiền, đội mũ Lão Trang vui với thiên nhiên, hoa lá, với “ánh trăng rằm” tròn đầy chưa từng thiếu mất của Phật Tánh, thì đâu có nỗi trầm luân, đâu còn sinh tử luân hồi nữa? Hình tượng “Trăng Rằm” trong từ ngữ Phật giáo Đức Phật thường chỉ cho “bản tâm, chơn như” của mỗi con người. Vui với cái “chơn như” hằng hữu trong sáng, tròn đầy ấy – thì có niềm vui nào lớn hơn đâu?
Lại có sự soi xét, nhìn lại thấu đáo từ chính con người mình, chính sinh hoạt tâm linh đã từng dính mắc, nhiễm ô với danh lợi bấy lâu, để tuổi già gần kề, -sự vô thường biến đổi đang tiến đến hủy diệt thân tâm, mới chợt biết :

Ta còn gì chăng ? Trái tim nguội lạnh
Ta còn gì chăng ? Khối óc rỗng không
Tầm mắt yếu không đủ nhìn cuối dặm
Đâu bóng con trâu nhòa nhạt giữa đồng?

Cái “có” và cái “không” ở đây phải hiểu là có phước đức, trí huệ, và không có phước đức, trí huệ ; chứ chẳng phải là sự “có không” thường tình (được tính theo tiền bạc, tài sản, địa vị …). Đây là một cách “phản quan tự kỷ” nghiêm khắc thấu đạt tôn chỉ Thiền. Tự nhận mình là “đức mỏng tài hèn” hay “không có gì cả”, lời thơ tuy có hơi cường điệu (mà tính chất cuả thi ca là vậy) nhưng cho người đọc biết, nhà thơ đã có giây phút trực nhận của “trí huệ vô lậu”, đã theo cách nhìn của Đạo Phật, là nhà thơ đã “có” từ cái “không” rồi vậy!
Hình ảnh “bóng con trâu” đã nói lên rõ nét sự quay lại, trở về, tìm kiếm chân tâm bị phủ lấp, lu mờ, nhưng buồn tiếc thay – nhà thơ đã phân vân chưa thấu rõ “đâu bóng con trâu nhòa nhạt giữa đồng”. Trong nhà Thiền, người tu Phật (hay chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo) đều phải biết mười bức tranh tu Thiền nổi tiếng “thập mục ngưu đồ”. Kẻ chăn trâu (là chính ta) đi tìm trâu, chăn giữ trâu, hàng phục trâu và đồng nhất với trâu (Tâm) là con đường đi đến giải thoát, an lạc, mà có lẽ tất cả chúng sanh đều ao ước. Tuổi đã về già, sức yếu, mắt mờ… nhà thơ đâu tìm thấy “bóng trâu” rõ ràng nữa để mà chăn giữ, hàng phục, hòa nhập với bản tâm thanh tịnh? Đây là một biểu tỏ thâm tình, chân thực nhìn nhận sự bất lực của chính mình, chứ không khoa trương, lộng ngôn, tự cho là mình đã chứng đạt.
Đoạn cuối bài thơ làm sáng tỏ lên tâm từ, tâm bao dung, tâm hỉ xả - đây chính là cái còn lại quý báu của con người: “Sợ lưỡi rìu làm chảy máu thân cây”. Tuy nhà thơ không còn gì, có gì, nhưng quả thật anh đã có cái rất lớn, đó là tấm lòng yêu thương bao la đến muôn loài, ngay cả với cỏ cây :


Mặt sạm da mồi tóc râu đã bạc
Ta trở về quê lỡ thợ lỡ thầy
Muốn theo Lão Tiều non Du hái củi
Sợ lưỡi rìu làm chảy máu thân cây…

Chúng ta đã hiểu nhà thơ muốn tâm sự điều này: “Đối với cỏ cây xưa nay được coi là vô tri vô giác, nhưng đã không nỡ “làm chảy máu” chúng – thì với cõi đời, với mọi người, làm sao anh không yêu thương, gắn bó, kiến tạo chúng cho tốt đẹp, để tất cả đều được hạnh phúc, an vui ? ”. Quan yếu là ở cái Tâm từ bi chân chính ấy, chứ không phải ở những khoa trương, thủ đoạn, gian dối để mãi trôi nổi trong sinh tử khổ đau muôn ngàn kiếp.
Tuy vẫn hiểu rằng từ thơ ca đến đời sống thực là một quãng đường dài, có nhiều đổi thay cách trở - nhưng qua cái phút giây tự vấn, tự soi lại tâm mình của nhà thơ cho ta một niềm tin yêu, rằng anh còn có những thời khắc can đảm, tỉnh giác như trên trong cuộc đời để rèn luyện tâm mình theo dõi từng bước chân tìm về với chơn tâm, sống trong cuộc đời vô thường ngắn ngủi nhưng vẫn phải làm được đôi điều có ích cho số đông, cho quê nhà…
Bài thơ thắm đượm sâu sắc tư tưởng Phật giáo, có chút âm hưởng của Lão Trang, là một sự hòa điệu rất vi tế, như cùng một dòng sông. Tóm lại-” Bài Hát Ngày Về “ của Trần Huiền Ân đã cho ta có được giây phút quý báu, để có thể tự nhìn lại đời mình, cõi tâm luôn luôn giao động của mình, để sống cho hữu ích một kiếp người vậy.

HL MANG VIÊN LONG
Quê nhà
Đầu tháng 3.2000

Thứ Bảy, 4 tháng 12, 2010

MỘT THỜI ĐẺ NHỚ... Tạp Bút Mang Viên Long


MỘT THỜI ĐỂ NHỚ…

Tạp Bút
Mang Viên Long


@Thương nhớ tặng những học sinh cũ ở Tuy Hòa- Phú Yên một thời…



Tôi đến thị xã Tuy Hòa lần đầu tiên vào một buổi chiều tháng 6 năm 1966 theo giấy bổ nhiệm của Bộ GD sau khi ra trường SP. Trước ngày chọn nhiệm sở theo thứ tự ưu tiên điểm số tốt nghiêp-Phú Yên được xem là một nhiệm sở tốt-rất nhiều sinh viên muốn đến; tôi đã nghe nói về thị xã Tuy Hòa như một miền đất yên lành, phong phú! ( đã “ phú” rồi mà còn “ yên” nữa ).Tỉnh Phú Yên chỉ được phân bổ 8 người-tôi là người thứ 2 được ký tên vào giấy nhận nhiệm sở đã được in sẵn. Cuộc đời tôi đã bắt đầu thay đổi-bắt đầu gắn liền với Tuy Hòa từ đây…
Một người bạn đã có thời ở Phú Yên kể cho tôi nghe về cái thị xã nhỏ nhắn, yên tĩnh, xinh đẹp mà anh nói khi rời khỏi nơi đây anh mãi nhớ! Thị xã sạch, xanh-lặng lẽ như một thôn nữ diệu hiền-người bạn nói văn vẻ như vậy. Theo lời anh-đây là một khu phố hiếm có thời này vì không có snack bar, lính Mỹ và gái nhảy! Nghe vậy-tôi rất vui, vì tôi đã quá chán những đường phố nhằng nhịt những quán bar, những âm thanh rập rình nhạc twist , những gương mặt tô trét son phấn nhầy nhụa…
Chiếc máy bay loại cánh quạt của hãng hàng không Air VN đáp xuống phi trường Đông Tác khoảng ba giờ chiều. Xe ca chuyễn vận hành khách vào thị xã đến trạm Tuy Hòa nằm trên đường Trần Hưng Đạo ngay sau đó. Lần đầu tiên được nhập vào dòng sống thị xã xa lạ tôi không khỏi bỡ ngỡ với từng con đường mình đang đếm bước.Tôi dừng lại ở Ngã Năm-đón một chiếc xích lô-móc ở túi áo ra cái phong thư- xem kỹ lại một lần nữa: “ Bác cho cháu xuống số nhà 63 THĐ”. ( Người bạn đã cẩn thận viết cho tôi một lá thư gởi gắm tôi cho gia đình một người bạn rất thân của anh).
Tạm có nơi nghỉ chân –tôi thong thả ra phố-đi loanh quanh theo mấy con đường dày bóng cây-yên vắng và lồng lộng gió nồm! Lòng đường như rộng hơn . Thời gian lướt qua cũng nhẹ nhàng chập chạp hơn.Tôi cảm thấy lòng mình nao nức như lâu ngày được trở lại chốn xưa. đang réo gọi. Tôi hân hoan hít thở cái không khí yên lành Tuy Hòa với niêm vui lạ lẫm hiếm có! Tôi đi thật chậm-đi mãi miết-nhìn ngó phố xá người xe Tuy Hòa mà lòng thật đầy niềm vui! Niềm vui mới mẻ tràn đầy sức sống của người thầy giáo trẻ là tôi khi tuổi đời vừa chẵn hăm hai.
Từ căn phố 63 Trần Hưng Đạo ngủ đêm đầu tiên ấy cho đến ngày tôi rời xa Tuy Hòa-Tôi đã di chuyễn chỗ trọ nhiều lần trong gần 12 năm dạy học ở đây. Muời hai năm-thời gian không nhiều, nhưng với hơn bốn ngàn ba trăm ngày đêm sống với Tuy Hòa tôi đã có thật nhiều kỷ niêm không bao giờ quên với trường lớp, với học trò, với đồng nghiệp, với những bạn văn thân yêu.. Thời tuổi trẻ thơ mộng dạt dào ước vọng của tôi dường như chỉ có ở đây. Gắn chặc nơi đây-với từng tên gọi, từng gương mặt,từng góc quán, từng con đường, từng nỗi buồn vui thế sự…
Ngôi trường đầu tiên tôi đến nhận lớp là Trường Hòa Vinh-huyện Hiếu Xương. Trường cách xa thị xã gần 12 cây số nằm trên quốc lộ-xe Lam chạy khoảng 30 phút.Tôi đã sống gắn bó chí tình với đám hoc trò quê mùa chơn phác ấy hơn ba năm. Biết bao niềm vui của thuở ban đầu làm nghề “ gõ đầu trẻ” của tôi đã gắn liền ở đây.Và hôm nay- trong đám học trò cũ năm ấy là Trương Lợi, Nguyễn Viết Chánh đang làm Hiệu Trưởng và Hiệu Phó- ngay ngôi trường mình đã học. Có Lê Hiền . Nguyễn Tấn Thả . Có Lê Đức Thọ .Có Nguyễn Văn Hùng làm Giám đốc Công ty. Có Nguyễn Tấn Hiệu, Trương Ngọc Cẩm, Huỳnh Văn Nghệ, Trương thị Hồng Mai, Nguyễn Thị Sen, Trần Thị Hương, Minh Nguyệt, Tuyết Nhung, Kim Phượng (..)-là những người học trò nhỏ nhắn nặng tình năm xua nay đã trưởng thành tốt đẹp- có người trong số ấy đã “ lên chúc” bà Ngoại, ông Nội rồi! Khi có dịp ghé thăm lại Tuy Hòa-tôi chỉ phone báo tin cho một người thì cả nhóm đã có mặt sum vầy như thuở nào.Thầy trò cùng cụng ly, cùng nhau kể lại bao tâm tình khi xa cách nhớ thương.Chúng tôi đã cùng nhau đến thăm viếng từng gia đình trong niềm hân hoan , hạnh phúc không thể nào quên ! Lần nào cũng vậy-khi tiễn tôi lên xe trở về quê, lại cũng có quà tặng, những lời cầu chúc chân tình, và những hứa hẹn tái ngộ. Một dịp xúc cảm như vậy-tôi đã viết được truyện ngắn “ Nghề Thầy Không Bạc Bẽo”để mong ghi lại những kỷ niệm. tình cảm một đời ấy với đám học trò thủy chung son sắc của mình.
Nhiệm sở sau cùng của tôi là Trường Trung học Tổng Hợp Nguyễn Huệ. Tôi được người bạn đồng nghiệp dành cho một căn phòng trong ngôi biệt thự của anh nằm ngay đầu đường Hoàng Diệu.Phía trước sân và chung quanh vườn trồng nhiều hoa - gia đình người bạn có mở một quán café đề làm nơi găp gỡ bạn bè đồng nghiệp -văn nghệ , những lúc nhàn rỗi . Tôi đã đặt tên cho chiếc quán xinh xắn ấy là “ Quán Cây Phuợng”. Nơi đây-nhiều nhà thơ-nhà văn-nhạc sĩ trong cả nước cũng thường tìm đến thắm mỗi khi có dịp ghé lại Tuy Hòa. .Ngày chủ nhật hay được nghỉ lễ-học sinh của tôi ở Nguyễn Huệ cũng thường vào phòng tôi trọ “ mời thầy uống với tụi em ly café” đều đều . Trong những lần gặp gỡ thân tình gần gũi- tôi hiểu thêm được tâm trạng, hoàn cảnh và ước vọng một đời của học trò mình-của tuổi trẻ trong thời chiến với bao nỗi ưu phiền .Từ nhà người bạn đến trường chỉ cách hơn 200 mét. Con đường rợp bóng cây-nên tôi vẫn thường đi bộ thong dong đến lớp đề được dắm mình trong con đường ngắn mát ngan ngát hương Lài này. Con đường mà tôi đã từng đi vể bao lần luôn có những tà áo trắng, áo xanh phất phơ dập dìu như bầy bướm-những tiếng cười dòn ấm áp vang động của một thời son trẻ thơ ngây – tất cả đã khiến con đường trở nên quyến rũ với tôi khi có giờ đến trường. Trong những tiết cho các em thực tập áp dụng từng thể loại thơ đã học-tôi vẫn thương ‘ ra đề’ về con đường đầy ắp kỷ niêm này-và đã nhận được bao vần thơ xinh đẹp!
Hơn 35 năm đã qua-những Trương, Ngọ, Tất, Dạn, Phúc. Hùng, Cẫm, Minh (…) và những Tiểu Hương, Ngọc Hương, Minh Nguyệt, Ngọc Huyền, Thanh Vân, Thúy Kiều(…) –hôm nay cũng đã có nhiều người rời xa quê, nhiều người vẫn còn lận đận, nhiều người thành đạt –nhưng hình ảnh mãi còn lại- in đậm trong ký ức tôi vẫn là những khuôn mặt hồn nhiên , dịu hiền, trong sáng thưở nào! Khi có dịp ghé lại Tuy Hòa thăm-tôi vẫn thường thích một mình đi qua con đường này đến trường, để được càm nhận sâu sắc hơn về cuộc vô thường của đời người-để rồi thương nhớ mơ mộng xa xôi! Những giây phút ấy đối với tôi thật mầu nhiêm thiêng liêng bởi từ khi rời xa mái trường ắp đầy kỷ niệm và ước vong ấy-tôi đã bước dần vào cõi đời bất hạnh! Và tình cờ trên đường phố Tuy Hòa, trong một cửa hiệu nào , trong một góc quán nào, hay buổi gặp gỡ liên hoan tôi được mời dự -tôi vẫn thường gặp lại những khuôn mặt xưa một thời gắn bó với những cái siết tay thật nồng ấm,- lưu luyến không muốn rời xa. Những lời chia sẻ đằm thắm nồng nàn không bao giờ muộn màng.
Ở Tuy Hòa, tôi cũng còn có nhiều bạn đồng nhiệp là nhà văn, nhà thơ-các anh Trần Hiuền Ân như anh em ruột thịt- Y Uyên thâm tình; Bùi Đăng nồng nhiệt; Đỗ Chu Thăng hiền lành; Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Lệ Uyên, Nguyễn Tường Văn trẻ trung vui nhộn;Khánh Linh xuề xòa cởi mở; Phan Long Côn , Đàm Khánh Hạ, Phan Tiên Hương đạo mạo chí tình(…) .Và còn rất nhiều tấm chân tình Tuy Hòa mả tôi không dám dài dòng!
Hôm nay ngồi đây-ở quê nhà, đón ngày 20 tháng 11-tôi không còn cảm thấy cô độc-vì những “ người bạn nhỏ” của tôi thuở nào vẫn cứ phone về chúc mừng, thăm hỏi-khiến lòng tôi tràn ngập niềm vui và tin tưởng!
“ Trong cuộc đời có đôi điều đáng nhớ…
Và đôi điều rất sâu thẳm-khó quên!
Điều đáng nhớ-đám học trò yêu dấu,
Kỷ niệm hồn nhiên đằm thắm-khó quên!(..) “

Xin cám ơn Tuy Hòa-cám ơn cuộc đát hiền lành-tình người keo sơn chung thủy!

Quê Nhà,
Nhân Ngày 20 tháng 11-2009
M A N G V I Ê N L O N G

Thứ Tư, 1 tháng 12, 2010

GIỚI THIỆU " BÔNG & GIẤY" Tuyển Tập Thơ 30 Tác Giả Hôm Nay




B Ô N G V À G I Ấ Y

Tuyển Tập Thơ
30 TÁC GIẢ HÔM NAY


@
Bài Viết: MANG VIÊN LONG


Vào giữa quý 2, năm 2010-nhà xuất bản Lao Động đã cho ấn hành Tuyển Tập Thơ của 30 Tác giả đang ngày đêm lao động sáng tạo cho sự đổi mới của dòng thơ ca hiện đại hôm nay; có tựa là “ BÔNG & GIẤY”.
Tập thơ dày 315 trang, gôm hơn 150 bài thơ của các tác giả: Tiểu Anh, Bỉm, Nguyễn Khương Bình, Đoàn Minh Châu, Trần Hữu Dũng, Nguyễn Đạt, Phùng Tấn Đông, Khương Hà, Nguyễn Thị Hậu, Nguyễn Thì Ánh Huỳnh, Inrasara, Huỳnh Thúy Kiều, Lưu Mê Lan, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lê Văn Ngăn,Chiêu Anh Nguyễn, Nguyệt Phạm,Mai Văn Phấn, Vũ Trọng Quang,Lê Vĩnh Tài, Từ Hoài Tấn, Huỳnh Lê Nhật Tấn, Liêu Thái, Phan Trung Thành, Nguyễn Qang Thiều, Đinh Thị Như Thúy,Phan Huyền Thư, Trần Tuấn, Đồng Chuông Tử, Trúc Ty.
Hơn bốn thập niên cuối của thế kỷ 20, một dòng thơ mới-hiện đại, đã được hình thành trong dòng chảy thi ca Việt Nam mà những tác giả trong nhóm Sáng Tạo, cùng nhiều nhà thơ thời ấy, đã thể hiện một cách thuyết phục sự đổi mới cần thiết cho một dòng thi ca của thời kỳ tiền và hậu chiến ( 1930-1960)đã làm xong sứ mệnh của nó. Những tác phẫm thể hiện sự tân kỳ từ nội dung đén hình thức ấy đã xuất hiện trên vài tạp chí văn nghệ Saigon của các nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Bùi Giáng, Nguyễn Đức Sơn, Viên Linh, Du Tử Lê, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Đặng Tấn Tới, Nguyễn Tôn Nhan, Trần thị NgH, Lê Văn Ngăn, Nguyên Đạt (…) đã chúng minh sự trổi dậy vững chãi p đầy tính sáng tạo phong phú của dòng thơ này – và họ đang tiếp bước cùng nhừng nhà thơ hôm nay của thế kỷ 21 để hình thành một dòng thi ca tươi trẻ luôn miệt mài trôi chảy trong nền văn hóa dân tộc…Sự xuất hiện của “ BÔNG & GIẤY” vào thời điểm hôm nay, tuy có hơi muôn-nhưng thật cần thiết, để tiếp tục khẳng định một điều quan yếu trong sáng tạo : “ Nghệ thuật không bao giờ đứng yên một chỗ”!
Trong phạm vi một bài viết ngắn-có tính cách giới thiêu / chúng tôi xin được ghi nhận đôi diều về “ Bông & Giấy” với một số tác giả tiêu biểu như:
Nhà thơ Nguyễn Khương Bình trong bài” Chẳng Để Làm Gì” ( trang 32)/ với điệp ngữ “ tạm gác” ( 3 lần)/ sau đó là “ gác”/ đã cho thấy rất rõ dòng tư tưởng/ xúc cảm cùa Nhà thơ-khi đang dọn lòng để trở về với cõi yên vắng như nhiên của tâm hồn với Tình yêu/ đời sống thật-dù “ chẳng để làm gì cả!”. Chẳng để làm gì/ mà là cái cần làm-cần thiết nhất cho đời sống mà không phải ai cũng cảm nhận được/nhìn thấy được? Phải chăng chúng ta đang làm những cái “chẳng để làm gì “ đó sao?


“ Tạm gác những cánh mùa đang dịch chuyễn
(…)Tạm gác những đau buồn, nỗi nhớ
(…)Tạm gác những muộn phiền
(…)Gác những thăng trầm lênh đênh
Đã chọn dúng thái dộ “ gác” rồi/ nhưng “ gác” đ làm gì-Nhà thơ cho biết:
“ Lắng nghe điều gì
Sau tiếng thở dài của cô gái tuổi ngoài ba mươi
Mơ hồ
Nỗi cô đơn trong thẳm sâu hồn ai

Chẳng để làm gì cả
Thêm chút xíu bận tâm
Thêm chút xíu con người
Thế thôi! “


Những cái mà nhà thơ “ thêm chút xíu”/ ( bận tâm/ con người) là những cái thật to lớn/ thật vô cùng cần thiết cho mỗi con người chúng ta hôm nay!
Trong bài thơ “ Đêm nguyên tiêu và Hàn Măc Tử” ( trang 51/ chỉ dài 26 câu - có câu 1 chữ)/ Nhà thơ Trần Hữu Dũng đã nói rất đủ/ rất sâu về nhà thơ Hàn Măc Tử mà trước đây chưa nói hết. Với ngôn ngữ sắc/ mạnh-Trần Hữu Dũng đã phóng tầm nhìn lướt qua từng mảnh đời lẫm liệt bi tráng của HMT/ để khắc chạm một hình tượng HMT rất mới:


“Đêm nguyên tiêu-Hàn Măc Tử thấy trăng
phát sáng giấc mơ diễm ảo
trên rừng thông, đồi,núi Đà lat và nỗi cô đơn buốt tim
Chôn vùi những hạnh phúc, ẩn ức muôn đời tân đáy lòng
(…) Hàn Mặc Tử tái sinh trong mầu trăng xanh đêm rằm
tái sinh hơi thở thơ rạt rào tràn bờ
tôi thấy người bước đi chậm rãi dọc bờ biển đất nước
Việt Nam, hướng tới mặt trời siêu hình rực rõ
phương Đông “.


Viết về một Tình –Yêu-rất-người/ Nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh bằng ngôn từ tuợng trưng phong phú sâu kín/ bằng nhiều hình tượng mới lạ nhưng rất thật/ bằng xúc cảm mãnh liệt của tuổi trẻ trước tình yêu, bằng nỗi khắc khoải ngàn đời về sự hiện diện củacon người-đã viết nên “ Con Ngựa Trời Của Anh” ( trang 142)/ tạo được cảm giác mới mẻ, lôi cuốn người đọc:


“ Em, con ngựa trời của anh
Cặp càn vâm sắc nhọn
Vẫn thường cắt cổ anh trong giấc ngủ
Tỉnh dậy quanh ta toàn mùi máu
(…)Tiếng hí những ngày tháng dã chiến
Trên những khối u mọc loài hoa dại
Khi cặp càng vung lên chặt đứt nỗi cô đơn
dể làm lộ nỗi cô đơn lớn hơn
Khi đôi mắt trâng trâng ngó sững vào bi kịch
bỗng phát hiện bi kịch lớn hơn
Như khi cặp đùi em quặp chặt anh
hoài thai loài buồn sang kiếp khác
(…).
Theo dõi dòng thơ Lê Văn Ngăn từ những sáng tác đầu tiên trong những thập niên cuối thế kỷ trước/ tôi nhận thấy-đó là một dòng thơ xuyên suốt/ tiếp tục-thể hiện một phong cách thơ rất riêng-trong con đường sáng tạo thơ ngày càng vững vàng, điêu luyện. Đề cập đến sự chuyễn hóa / vô thường của vạn hữu-/ sự “ trần trụi” vô nghĩa của kiếp nhân sinh -nhà thơ đã lấy ngay trong cuộc đời mình/ cuộc tình mình làm ví dụ/ rất chân xác-: gần gũi-tạo nên cảm xúc khá mạnh cho người đọc : “ Ví dụ, một vẻ tàn phai”( trang 150). Đây là một “ chủ đề” rất lớn mà Đạo Phật đã luôn đề cập/nhưng qua thơ-Lê Văn Ngăn đã rất tỉnh táo/ trầm tĩnh / diễn đạt điều “ khó hiểu” ấy:bằng ngôn từ riêng:


“ Năm tôi hai mươi tuổi
một điếu thuốc cháy tàn trong góc quán
những sợi mưa thầm trên mặt sông
bóng đêm trên cây vông tầng lá tối
vông sẽ nở
trời sẽ hết bóng đêm
và tôi sẽ không còn ngồi trong góc quán nay
(…) Năm tôi ba mươi tuổi
…chẳng có gì khác ở cuối con đương tím ngắt
chẳng có gf khác ngoài hồn tôi mờ mịt

Những hạt thanh xuân tôi tặng em
tặng những tàn phai không mỉm cười không nức nở
những rộn rã của một đời người
không bằng âm vang tiếng guốc (…)”
Nguyệt Pham viết về “ Mùi Của Mẹ” ( trang 170) bắt đầu từ cái khơi dậy rất mới của xúc cảm “ Trùm chăn ôm người lạ” trong nỗi hạnh phúc tình cờ nào đó của đời sống-hấp dẫn người đọc đi dần vào một đề tài không mới
“ Trùm chăn ôm người lạ
Ấm tràn khoảng không gian bé nhỏ
Như thuở xưa gối đầu lên tay mẹ
Từng ngón tay từng chân tóc thân quen
Mùi mẹ
ấm nồng
đặc trưng
(…) Mùi của mẹ theo con đến tận cùng miền đất xa xôi. “


Với nỗi đam mê suốt bao năm tháng với thơ-dòng thơ hiện đại/ Nhà thơ Vũ Trọng Quang đã nổ lực hình thành “ Bông & Giấy”/ để cống hiến cho người đọc có một cái nhìn rộng hơn/ sâu hơn/ về những “Tác gỉả thơ hôm nay”. Đây là một việc làm rất cần thiết/ để thơ đi vào cuộc sống-đi vào sự “ thử lửa” của tháng năm. Trong bài “ Bông & Giấy” ( trang 186) nhà thơ đã tâm sự:


“ Bông tạo ra cái đẹp
Giáy tạo ra cái chữ
chắc gì Bông tạo ra cái đẹp
chắc gì Giấy tạo ra cái chữ
đều cần thiết

Bông đang úa
Giấy đang rác
đều cần thiết

Tập thơ Bông Giấy
Trà đá Bông Giấy
điều cần thiết!”


“ Chắc gì/ chắc gì-đều cần thiết/ đều cần thiết”/ là bức thông điệp ( hay là tuyên ngôn) của nhà thơ gởi cho” Bông & Giấy”. Nhà thơ kết thúc thông điệp một cách nhẹ nhàng/ khiêm tốn ( không đao to/ búa lớn): “ Tập thơ Bông Giấy/Trà đá Bông Giấy/ điều cần thiết”. Vâng/ đó là những “ điều cần thiết” cho đời sống của con Người/ của Thi ca!
“ Gọi Hồn Khi Sống” ( trang 104) của nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh là một bài thơ tình bi tráng/ của Tình Yêu và thân phận của nó-đã được thể hiện với những cảm nhận mới/ rất đời thường-nhỏ nhặt-nhưng đó là nỗi bi thãm xa xót của đời người đứng trước vấn nạn Tình Yêu :

“ hồi nhỏ em tin
mình có linh hồn

rằng mình nhớ cài gì
linh hồn mình ở đó(…)

lớn l;ên gặp và iu anh
nhớ anh
linh hồn em ở trong anh
(…)nay ngó vô anh
thấy linh hồn em mất tiêu

bớ linh hồn đâu
về với thân sống không hồn nay
hồn về được ăn phở. “


Bày tỏ về một tình yêu khát khao/ một dĩ vãng êm đềm đã mất/ một nỗi cô đơn cùng cực của kiếp người bé nhỏ trước cõi vô hạn mờ mịt khổ đau- Nhà thơ Chiêu Anh Nguyễn đã rất thành công với bài thơ “Những Ngày Không Trở Lại” ( trang 165):


“ và bầy chim
không quay về nữa
mùa trú đông tàn tự thuở khai sinh
lớp áo mỏng em che không trọn
thịt da buồn ngầy ngật điêu linh
căn nhà nhỏ
nằm im ỉm đóng
bậc thềm rêu
lún phún trổ hoa
gió thọc mạch nhột bề nhột nhạt
đường mênh mông
hoa trải trắng hiên nhà (…) “


Nhà thơ Từ Hoài Tấn với những tình khúc ngọt ngào của những thập niên cuối thế kỷ 20 đã./ đang chuyễn bước vào một dòng xúc cảm mạnh mẽ hơn/ khốc liệt hơn-nhưng cũng đằm thắm, thẳm sâu hơn. Đó là sự trưởng thành của tháng năm kinh qua cuộc truân chuyên/ thực chứng cùng đời sống-bài thơ “ Sống Trong Đời Như Gió Lộng” ( trang 211) đã chứng tỏ rõ ràng điều đổi thay ấy :

“ Trong chiều dần hết những cánh mùa thu chao vòng
lần cuối
Tội lỗi em đâu hãy phơi bày
Một ngọn lá sẽ tàn, dù biết vậy
Hay xanh hơn thưở mới ra đời
Và cũng như cánh chim cuối trời dông tố kia
Hãy vỗ tiếng chào lực lưỡng trên gió lộng

Tôi làm thơ một đời không ý nghĩa
Lời ngợi ca cỏ cây
Có khi vơi đi nỗi buồn cơm áo (…)

(…) Môi của em đâu hãy mở
Mắt của em đâu hãy xinh đẹp
Tiếng dịu dàng đâu em hãy thốt
Và nụ cười đâu em hãy nở
Trong trái tim ta có một dòng huyết lưu
Nồng nàn và ngọt ngào như rượu lễ
Trên hai tay chúa dang ra

(…) Một ngọn lá sẽ tàn, dù biết vậy
Hãy xanh hơn thuở mới ra đời (..) “


Với tập thơ đầu tiên “ Thèm Ăn” ( 2008)-Đòng Chuông Tử đã khẳng định được mình trong “ trò chơi chữ nghĩa” này. Từng bước đi từ tốn/ cẩn trọng- Nhà thơ Đồng Chuông Tử đã thể hiện mọi dáng vẻ của dời sống/ từ đơn sơ-đến sâu khuất/ tất cả đều ánh rõ trong từng xúc cảm/ ghi nhận-dễ đem lại sự đồng cảm cao dộ với người đọc. Bài thơ “ Mùi Thơm Của Im Lặng” ( trang 295) là một ví dụ: Điều thật giản dị được nhắc lại/ vì đời kia đã quên đi-và cái ồn ào huyên náo đau buồn có cơ hội làm tàn lụi tình thương yêu đang rất cần cho một cuộc sống hạnh phúc đích thực. Đây có thể là một tiếng kêu/ một khát vọng/ một tâm tình của nhà thơ muốn gởi gắm cho tất cả:


“ vì một sự nhịn là chín sự lành
nên im lặng có mùi thơm
im lặng có thể là tiếng nói rất đầy tràn
có thể không gì cả, im lặng là vàng
im lặng sẽ không chia li
im lặng sẽ không xung đột
im lặng sẽ không xảy ra chiến tranh
im lặng là không ai đi kiếm chuyện với
mỗi người là một miếng ngói
lợp nên mái nhà
ai đi ngược im lặng
mùi thơm biến mất> “


Lứot qua một số bài thơ tiêu biểu hôm nay trong “ Bông & Giấy”/ chúng ta nhận thấy dược sự nổ lực sáng tạo/ cách tân-của mỗi tác giả-đây là một điểu rất đáng trân trọng ghi nhận . Sự phơi bày chủ thể một cách trần trụi, với cái nhìn phân tích / chia cắt tỉ mỉ-đôi lúc rất táo bạo của “ thơ hôm nay” là một “ thực nghiêm” cần có trong đời sống vốn dĩ ngày càng khô cằn và phức tạp. Bên cạnh đó/ sự hồn nhiên đến như lộ liễu đối với mọi cảnh ngộ, mọi gặp gỡ/ hạnh phúc hay khổ đau- trầm luân hay hoan lạc-được thể hiện trong dòng thác cảm xúc không che dấu ở một số bài thơ-cũng là “ một thể nghiệm” cần có-cần thử thách / trong giai đoạn hình thành lâu dài.
Có một điều/ thiết nghĩ cũng nên “ nói thêm” ở đây- là cách ghi nhận chữ Việt của một vài nhà thơ là không thể chấp nhận được:Tiếng Việt vốn trong sáng/ thì thơ-cần làm cho nó thêm phong phú bằng ngôn từ mới phù hợp vốp sự tiến hóa của thời đại-chứ không thể làm cho nó trở nên đen tối/ u ám- như phải viêt chữ “ nghe/ thành “ nge” hay chữ “ yêu thành/ “ iu” v v v)-là “đổi mới “? (!).. Nếu cảm thấy cần có “ cuộc cách tân” trong chữ viết/ đề nghị nên có một công trình nghiên cứu bài bản/ nghiêm túc/ để được các nhà ngôn ngữ học/ thức giả bàn thảo thấu đáo –trước khi công bố để sử dụng. Việc tùy tiện sử dụng ( dù cho riêng mình) cũng là một điều cần dược thận trọng. Sự đổi mới của Thi Ca/ là ở hố thẳm tư tưởng-ở mênh mông xúc cảm/ trong những ghi nhận giải bày-chứ không phải nằm ở chỗ có hình thức “ lạ mắt/ lạp dị”(!).
Điều sau cùng: xin được chia sẻ trong bài “ ghi nhận” này là “ Sự đổi mới cần có thiêng chức đem Người gần với Người-trong tình thương yêu như nhiên vốn dĩ đã có sẵn trong Tâm mỗi con ngừoi khi vừa mới chào đời-khi ấy/ sự đổi mới mới hoàn thành được hoài bão của mình/ thật sự đi vào đời sống chung của nhân loại”!


“ Tập thơ Bông Giấy
Trà đá Bông Giấy
Điều cần thiết”
( VTQ)


Quê Nhà,
Tháng cuối tháng 6/2010.
MANG VIÊN LONG