Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

BÊN TÁCH TRÀ KHUYA Truyện Ngắn MANG VIÊN LONG



BÊN TÁCH TRÀ KHUYA


Truyện Ngắn
MANG VIÊN LONG



Nghe tiếng ông Cổn từ đầu ngỏ, nhìn thấy dáng ông lừng lững bước vào sân – ông Thạch rất ngạc nhiên. Cảm thấy lạ. Đã chạng vạng rồi, ông ấy còn tìm đến làm gì nhỉ? Bấy lâu nay gặp nhau, hẹn hoài. Rồi trôi đi như bao việc khác đã lạnh lùng trôi đi, nhưng ông Thạch không hề trách bạn. Ông hiểu ông Cổn – coi nhau như ruột thịt, ngay từ lúc ông ta từ miền Bắc trôi dạt về quê…Ông Thạch vẫn nghĩ, cứ để ông ấy muốn đến lúc nào thì tùy, bởi cuộc sống của ông cũng đang bấp bênh, chật vật – đâu có êm ả gì mà giữ đúng hẹn?
Ông Thạch không còn ở nhà cũ của hai đúa con nữa. Ông đã quyết định không về ở với đứa con nào trong hai đứa con của ông từ hơn một năm nay rồi. Ông dành dụm được chút tiền đến mua một mảnh đất nhỏ gần tám mươi mét vuông, rồi dựng tạm mái nhà tranh trong khu vườn của người bạn học cũ năm xưa đã trở lại quê chuyên nghiệp trồng trọt, chăn nnôi từ sau ngày đổi thay 30 tháng Tư năm ấy bán lại…
Trong gần 5 năm sau khi bán đi ngôi nhà ở phố san sẻ đều cho hai con – Ông đã luôn di chuyễn từ nhà đúa con gái đầu, đến nhà người con trai út – nhưng nơi ông “ trụ “ lại tương đối lâu hơn, vẫn là nhà của cậu An. Ì ạch chuyện thi vào đại học mấy năm vì cái lý lịch – cuối cùng, An cũng xin cắt được hộ khẩu vào học ngành Thủy sản ở Nha trang. Chuyện nuôi trồng chế biến các loại hải sản thì chắc là không ăn nhập gì đến cái lý lịch “ không rõ ràng “ của An về chuyện hai hoa mai vừa nở trên ve áo ông Thạch thì đã sớm héo tàn từ năm xưa rồi! Cá- tôm, mực, cua, v v v đâu có biết gì. dính líu gì đến ý thức, quan điểm, lập trường nhỉ? Chúng chỉ là những con vật dùng để phục vụ cho cái miệng thôi mà. Về quê, An xin làm cho trại nuôi trồng thủy sản của huyện. Lương tuy rất thấp, nhưng cũng đủ nuôi cái miệng qua ngày…
Đám con ông Phúc - nhà kế bên, cũng ì ạch chuyện lý lịch tư sản, đã liều mạng lần lượt vượt biển hết rồi. Ở trại về, gánh nặng gia đình của người vợ đã mất từ sau ngày ông lên trại 2 năm, khiến ông vừa trả hết nợ này, lại đến trả nợ khác. Lo cho hai đứa con nhỏ ăn đi học cũng đã mệt nhoài rồi, lấy “ cây “ đâu mà giao cho bọn chủ tàu như ông Phúc chủ hiệu vàng Thành Tín một thời lộng lẫy? Phận nghèo, thời nào, cũng phải nhận sự khổ!
Người chị của An chẳng may “ lọt “ vào cái thời của ý đồ quay trở lại thời kỳ cải cách năm 56 theo kiểu Tàu, nên đã sớm biết phận lo tìm cho mình một cái nghề để kiếm ăn cho dầu ba năm liền cấp ba, đều là học sinh giỏi. Đạt học sinh giỏi văn cấp tỉnh. Không bước vào được ngưỡng cửa đại học, cô con gái ông không ngớt phiền trách cha từ nhiều năm sau đó. Mỗi lần nghe con hậm hực than trách, ông liền bỏ đi chơi đâu đó cả buổi không thiết làm gì nữa! Ông biết nói gì với con về cái quá khứ dài dặt và bất hạnh mà ông ( và bạn bè ông ) đã phải trải qua? Tuổi trẻ chỉ biết oán trách cái trước mắt. Chưa hề biết chia sẻ cái sau lưng. Nghĩ mà buồn…
Còn ông Cổn – từ miền Bắc hối hả xin về quê, không có chức danh gì mang theo ngoài quá trình 15 năm lao dộng giỏi ở công trường cũng vì cái “ gốc “ địa chủ đã khai từ thời còn đi học – nên mâm cổ ở huyện và thị trấn không có chỗ nào dành cho ông cả, ngoài chân thủ kho hợp tác xã mua bán nhờ mấy năm sau cùng trước ngày 30 tháng 4 bị đau bệnh nên điều về sở thương nghiệp Hà Tây làm thủ kho ở dó. Về đến quê – ông biết dược chính xác người vợ cũ đã chết trong dịp tết Mậu Thân khi theo đoàn biểu tình lên phố. Đứa con trai duy nhất của ông lúc xuống tàu còn nằm im trong bụng mẹ, đã đi lính thủy quân lục chiến, rồi lưu lạc vào nam cưới vợ, lập nghiệp - cũng không tìm ra tông tích. Ông trở về. Gọn gàng với cái ba lô, chiếc xe đạp Phượng Hoàng, và mấy chục đồng tiền tiết kiệm. Nhưng viễn cảnh cuộc sống thì đang bề bộn ngổn ngang…
Tình cờ gặp lại ông Thạch sau hơn 21 năm ở giữa đường phố – ông Cổn không nhận ra, nếu ông Thạch không quá vui mừng dạn dĩ lên tiếng hỏi trước. Từ ngày ấy – cả hai đã coi nhau như hai anh em giống thuở còn đi học chung lớp 7 ở trường Hòa Bình. Sau ngày người cha bị “ đấu tố “, ông Cổn cũng hết đường đến trường. Gia đình ông Thạch, tuy bị xếp loại “ tiểu tư sản “ nhưng sau đó – xin chỉnh sửa lại là “ tiểu thương” nên học hết năm lớp 8 mới nghỉ hẳn khi mẹ ông chết đi vì bệnh lao. Họ thường lui tới thăm nhau bên tách trà ly rượu, khề khà trò chuyện mà không chút dấu diếm, sợ hãi.
Người vợ sau của ông Cồn ở Hà Tây nhất định không vào nam với ông khi biết rõ “ chức vụ “ thủ kho của ông, và hiện dang tạm trú trong một góc nhà kho chật hẹp. Hơn 20 năm phấn đấu, nhưng bản tính lờ đờ, chất phát – lại vướng vào cái “ gốc “ địa chủ từ thời ông cố - ông Cổn cũng không có được tấm thẻ đỏ như bao người ở Bắc về…Không có bằng cấp gì, không có thẻ đỏ, lại chẳng có người “ đõ đầu “ nữa – nên ông Cổn như bóng cây khô trơ trụi ở quê. Ông thường nói với ông Thạch.: “ Mình giữ được chân thủ kho là may mắn lắm rồi còn gì? Mình phải lo giữ, dể cho thiên hạ ăn mà… “. Về lại quê sau 21 năm - ông Cổn không có chút tài sản riêng nào khác như lúc ra đi năm 54. Ra đi với chiếc ba lô, trở về cũng với chiếc ba lô – nhẹ tênh…



Biết được ý định của ông Cổn sẽ ở lại chơi qua đêm, ông Thạch rất vui – vội xuống bếp loay hoay nấu mì sợi với trứng gà ( trứng gà của người bạn bên cạnh có thể lấy dùng rồi trả tiền sau cũng không sao). Hai tô mì sợi to súc hai quả trứng được ông Thạch dọn ra trên chiếc bàn nhỏ kê giữa sân cho thoáng mát, thay thế bữa cơm chiều muộn màng.
Ông Cổn nhìn tô mì bốc khói – cười thoải mái: “ Trời khiến tụi mình càng lớn, ăn uống càng ít lại – chứ nếu ăn như thời trai trẻ, thì có nước…ngủ đói! Tôi đã bao năm ngủ đói rồi…”
- Anh cứ việc ăn no – Ông Thạch liếc nhìn bạn – sâm thì không có, chứ còn mì sợi thì nhiều lắm đấy!
- Anh khỏi lo – ông Cổn vừa múc muỗng mì lên – tôi có mang theo mấy gói mì tôm tiêu chuẩn nữa đây mà! – đêm nay đói lúc nào, mình ăn lúc dó…Hà hà, vậy là nhất xứ nẫu rồi còn ai hơn?
Dường như bao giờ ông Cổn đến thăm ( hay gặp nhau ở đâu đó ) cũng mở đầu bằng một hay hai bài thơ có sẵn trong túi áo đọc cho ông Thạch nghe. Ông Cổn đâm ra có “ tật “ làm thơ, mê thơ từ ngày được về lại quê nhà. Hình như ở vào tuổi xế chiều, và sự cô độc – dễ làm cho người ta gần gũi, gắn bó với “ nàng thơ “ hơn? Gặp nhau chỗ vắng, nghe ông đọc thơ còn được. Giữa phố đông người – lại mang thơ ra đọc, thiên hạ dòm ngó với đôi mắt lạ lùng, đôi lúc khiến ông Thạch rất bỡ ngỡ mà không dám nói. Đêm nay – ông đem theo cả quyển vở 100 trang ghi chép đầy thơ trao cho ông Thạch : “ Trong đây là tâm tình của tôi suốt bao nhiêu năm dã dược ghi lại, anh đọc thử thế nào? “. Ông Thạch cầm tập thơ, lật vào trong vài tờ - lặng lẽ đọc…
Ông Cổn vừa ăn, vừa phân trần:
- Anh đọc rồi góp ý thử xem thơ tôi có …ra thơ không nhé?
- Thơ là nỗi lòng, là chuyện riêng của anh – tôi làm sao biết hết mà góp ý đây? – Ông Thạch dè dặt.
- Tôi biết anh lúc còn đi học đã làm thơ hay, nổi tiếng cả trường, hai mươi mốt năm vẫn làm thơ – sao lại từ chối khéo vậy?
- Tôi chưa hề nghĩ mình là “ nhà thơ”, mà chỉ làm thơ cho mình…Còn ai “ gán cho “ danh từ gì, tùy họ thôi mà!
Ông Cổn đặt muỗng và đũa xuống chiếc khay nhỏ - ngẩng lên, đọc thuộc lòng một bài thơ trong tập :
“ Ngày đi có vợ, có con…
Ngày về vợ đã chẳng còn bên ta?
Con thì phiêu bạt phương xa,
Đời ta còn lại bóng tà cuối thôn !
Nhớ thương da diết mỏi mòn,
Tìm đâu ngày cũ? Nước non dặm dài..”
- Buồn ! Ông Thạch buông thỏng..
- Hỏi anh, đời tôi còn lại gì để vui nữa mà không buồn?
- Chứ đời tôi có hơn gì anh đâu?
- Nhưng anh đáng sống hơn tôi…
Ông Thạch không cải lại – cắm cúi ăn. Ông nghĩ, sự im lặng lúc này là nỗi chia sẻ chân tình và lớn nhất dành cho bạn. Hai tô mì đã hết. Ông Cổn tự lo dọn bàn, còn ông Thạch vào nhà trong mang ra khay trà và gói Basto đỏ còn nguyên.
Đêm đang lan dần ngoài ngỏ vắng. Bóng tối làm cho không gian im vắng đến lạ lùng. Sự vắng lặng lạnh lẽo cuối thu nơi góc vườn nhà thôn dã có lúc tưởng như trên mặt đất này chỉ trơ trụi hai bóng người còn thức - ngồi bên nhau. Gió thu dìu dặt. Nhẹ. và se lạnh. Đêm dần vào khuy. Đất trời mỏng manh, mờ mịt…
Hai người vô tình cùng nâng tách trà lên một lượt – nhin nhau, uống từng ngụm nhỏ. Ông Cổn chợt nói : “ Anh lật vào bài “ Nhớ Em Ngày Ấy “ xem đi! “
Ông Thạch chìu ý bạn – lật tìm bài thơ. Cất giọng đọc lớn :
“ Em đến đời anh như bóng trăng,
Giữa đêm trừ tịch – buốt lòng anh..
Ánh trăng soi sáng đời anh mãi.
Một thoáng nhưng sao đẹp vĩnh hằng?

Anh tưởng đời anh đã bò đi,
Ngờ đâu em đến – tuổi xuân thì…
Duyên trao phận gởi, không hề tiéc
Che chở đời anh – buổi hàn vi! “
Ông Cổn uống cạn tách trà, châm nước thêm cho mình và ông Thạch – giọng sang sảng; “ Anh nhớ ngày đó gia dình tôi bị cả xóm lánh xa, như lánh xa một nguồn bệnh nguy hiểm, nhưng cô ấy đã tự nhiên đến với tôi – chẳng hề để ý gì đến mọi lời đàm tiếu, kết án của đoàn thể – tự nguyên yêu thương, và sẵn lòng về làm vợ tôi bất cứ lúc nào…thì đúng là “ ánh trăng “ mầu nhiệm rồi – còn gì? “
- Vậy là đời anh cũng đã có một “ ánh trăng”, một mối tình quá đẹp rồi! – Ông Thạch hít một hơi thuốc, thả khói – một đời, đôi khi có dược một gặp gỡ tuyệt vời như vậy, cũng đủ rồi – anh à!
- Nhờ vậy tôi mới sống nổi ở ngoài đó hơn 18 năm lao động ngoài công trường quần quật đêm ngày để chờ đợi mỏi mòn ngày về được chứ anh?
- Còn cô ở Hà Tây thì sao?
- Năm 73 – tôi bị bệnh nặng nên được chuyễn về điều trị ở bệnh viện Hà Tây. Cô ấy là điều dưỡng…Cũng tình cờ gặp nhau rồi chung sống được mấy năm thôi!
- Có con cái gì không?
- Cô ấy đã lớn, khó có con – chỉ “ nương tựa “ nhau mà sống cho hết đời thôi…Ngặt nỗi, cô ta cũng rất xinh – nhưng thuộc thành phần tiểu tư sản nên chẳng có cán bộ cốt cán nào dám mó đến cả!
- Vậy mới còn lại cho anh chứ? – Ông Thạch chợt cười, anh đã được… nhà nước “ chiếu cố “ lắm rồi, còn gì?
- Đôi lúc quá buồn, tôi cũng nghĩ như anh!
Hai bóng người ngồi bên nhau lặng lẽ.
Những tách trà đã cạn. Rồi đầy. Bao lần. Sự im lặng trôi qua - theo dòng, như đã chảy qua đời nhau hơn 21 năm gập ghềnh thác lũ. Họ đã còn lại, như những nhánh cây khô trôi dạt vào hốc đá – chỉ chờ ngày rã mục.
Tiếng ông Cổn chợt vang lên: “À! mà anh cưới vợ vào năm nào? “.
- Năm sáu bảy!
- Muộn vậy?
- Tôi nhỏ thua anh 4 tuổi mà! Cũng lao đao lắm phen …rồi mới nhảy vào trường võ bị Đà lạc…
- Vợ của nhà thơ mà hào hoa như anh chắc là phải đẹp ?
- Không đẹp lắm đâu – Ông Thạch ngập ngừng – nhưng cũng là “ cái duyên “ tình cờ đến với đời mình…Còn duyên thì ở, hết duyên thì đi – vậy thôi!
- Tôi cũng tin vậy – ông Cổn đặt tách trà xuống – chẳng hạn như cuộc đời tôi…
Đêm lặng lẽ trôi . Mặt trăng thu 21 chênh chếch lơ lửng góc trời phía đông trông lạnh lẽo. Tiếng gà bâng quơ chợt gáy đơn độc từ góc vườn nhà người bạn như tiếng thở dài. Tắt lịm.
- À! Tiếng ông Cổn bổng thốt lên – anh còn nhớ thằng Can-lùn làm lớp trưởng năm tụi mình học lớp 6 không? “
- Nhớ! Can “ cốt cán “ mê con gái bà chủ nhà đó chứ gì?
- Đúng rồi!
- Mà sao?
- Ra ngoài đó, gốc gác bần cố, được đi học – làm lớn lắm, có lần giáp mặt mình ở Hà nội mà nó làm lơ – đã chết rồi…
- Chết ở đâu?
- Ngoài Bắc…
Ông Thạch xé bao thuốc ra, còn lại 2 diếu – chia cho ông Cổn một diếu – nhếch cười : “ Ngày xưa, có người thắp đuốc chơi đêm, vì nghĩ đời quá ngắn cũng phải. Cuộc đời ngắn ngủi thật. Hai mươi năm, rồi gần hai mươi lăm năm – nghoảnh lại, có là gì đâu? “
- Không biết anh nghĩ thế nào, chứ tôi đêm nằm một mình nhớ lại – đúng là một giấc mộng anh à!
- Vậy mà có lắm kẻ không bao giờ nghĩ được như vậy…
- Họ là đám người đang say mà anh? Đã sỉn rồi, thì còn biết trời trăng gì nữa đâu?
- Một cơn say dài dặt cả đời - Ông thờ dài.
Đêm sâu hút. Sương lạnh. Gió thu dạt dào, se thắt hơn.
- Anh còn nhớ cô Thảo-tây-lai không?
- Biệt danh ấy làm khổ cô ta một thòi rồi – anh nhắc lại làm gì?
- Ai cũng biết Thảo đẹp, có gương mặt thanh tú , mũi, mắt giống Phương tây – và làn da luôn trắng hồng, nhưng đâu phải là Tây-lai anh?
- Đành vậy! – Thạch cười mơ hồ - anh có biết là lúc ra đi Thảo đã ở lại nhà tôi, khóc ròng một ngày không?
- Có vậy sao?
- Nói giỡn với anh làm gì?
- Vậy là anh hạnh phúc quá rôi!
- Nàng đi biệt ngay ngày hôm sau – năm 80 có về thăm quê…
- Có thăm anh không?
- Dĩ nhiên là có!
- Rồi sao?
- Nhìn nhau một lát, rồi…đường ai nấy đi thôi!
- Chông Thảo là Thứ Trưởng đó , ông à!
- Tôi biết – Thạch cười bâng quơ – Thảo có nói…
- Sau khi được đi du học ở Nga về, Thảo làm ở Bộ Văn Hóa Thông Tin – và là…vợ ông thứ trưởng!
- Đó cũng là một giấc mộng …
Ông Cồn búng mẫu tàn thuôc bay lên cao – vệt sáng vạch một đường cong phiền muộn…
- Anh vào trong ngã lưng một lát đi, khuya quá rồi! – Ông Thạch nói.
- Còn anh?
- Tôi ngồi đợi sáng…

MANG VIÊN LONG

Thứ Tư, 7 tháng 9, 2011

NHÂN KỶ NIỆM 5 NĂM NGÀY MẤT CỦA NHÀ BÁO LÊ NGỘ CHÂU - SÁNG LẬP & CHỦ BÚT TC BÁCH KHOA



NHÂN KỶ NIỆM 5 NĂM NGÀY MẤT

NGƯỜI SÁNG LẬP & CHỦ BÚT TẠP CHÍ BÁCH KHOA




Nhà Báo LÊ NGỘ CHÂU
( th 9 -2006 – th 9 -2011 )


Tạp Bút
MANG VIÊN LONG




Nhà báo Lê Ngộ Châu – người sáng lập, chủ nhiệm & chủ bút tạp chí Bách Khoa đã vĩnh viễn ròi xa tòa soạn báo BK, gia quyến, văn hữu bao năm gắn bó , đã thanh thản ra đi vào lúc 11 giò sáng ngày chủ nhật 24 tháng 9 năm 2006 – tại nhà riêng ( tòa soạn báo BK) số 160 – đường Nguyễn Đình Chiểu ( trước đây là Phan Đình Phùng ) – quận 3 Saigon, trong sự thương tiếc của tất cả …
Tạp chí Bách Khoa là một trong vài tờ tạp chí nghiên cứu & sáng tác văn học uy tín nhất ở Saigon đã thực hiện liên tục 426 số báo trong hơn 15 năn hoạt động. Những nhà nghiên cứu – phê bình, nhà văn, nhà thơ đã cọng tác thường xuyên trên BK như Tràn Tuấn Khải, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Nguyễn Ngu í, Bùi Giáng, Đông Hồ, Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu, Hoàng Xuân Hãn, Thạch Trung Giả, Nguyễn Văn Xuân, Võ Hồng, Võ Phiến. Quách Tấn, Trần Văn Khê, Vũ Hạnh, Vương Hồng Sển, Cung Giũ Nguyên, Thế Phong (…) đã khẳng định giá trị bền vững cho BK trong lòng bạn đọc.
Bên cạnh những nhà nghiên cứu, nhà văn – nhà thơ đã thành danh; công đầu của BK là đã phát hiện, nuôi dưỡng, tạo điều kiện cho nhiều cây bút trẻ tài năng kế tục con dường phục vụ văn học mà BK đã chọn, đã bao tháng năm âm thầm miệt mài làm việc – để BK ngày càng phong phú, giá trị hơn cùng năm tháng phát triển…Đó là những cây bút trẻ tài năng đã tiến bước dài lấu trên văn đàn Miền Nam như : Nhật Tiến, Lê Tất Điều, Y Uyên, Trần Huiền Ân, Trần Hoài Thư,, Túy Hồng, Nguyễn thị Thụy Vũ, PhạmThiênThư, Mường Mán, Mang Viên Long, Nguyễn Thị Hoàng, Luân Hoán, Cung Tích Biền, Thành Tôn, Hoàng Lộc, Phan Nhự Thức, Nguyễn Nho Nhượn, Cao Thoại Châu, Nguyễn Mộng Giác, Lâm Chương, Đỗ Nghê, Từ Thế Mộng, Ngụy Ngữ, Hà Nguyên Dũng, Phạm Cao Hoàng, Lê Văn Trung, Nguyễn Nho Sa Mạc (…)
Tôi chỉ được cọng tác với tạp chí BK kể từ năm 71 – cùng lúc, viết thường xuyên cho tạp chí Vấn Đề ( chủ trương & chủ bút : GS-nhà văn Vũ Khắc Khoan & nhà văn Mai Thảo ). cọng tác với tạp chí Văn, Trình Bầy, Phổ Thông, Khởi Hành, Khai Phá, Hiện Diện, Tuổi Ngọc…
Tôi viết gởi cho BK rất ít - bài thơ đầu tiên của tôi đăng trên tạp chí BK có tựa đề “ Thơ Cho Con Đầu Lòng”- một bài thơ mới, khi nghe tin đúa con gái đầu lòng vừa được sinh ra ở quê nhà đang bị đe dọa bởi cuộc chiến ngày càng sôi sục thù hận. Năm sau, BK đã chọn đăng bài thơ “ Những Dãy Hành Lang Buồn Bã “ ( một bài thơ tự do ) – được viết khi tôi dang nằm điều trị ở Bv Quân Y Nha Trang – lúc này thì chiến tranh đã vô cùng ác liệt trên các mặt trận – và thương bệnh binh khắp vùng 2 CT được đưa về QYV khá đông.
Tôi không còn nhớ rõ số BK nào đã đăng bài thơ ấy – nhưng, “ sự cố “ về bài thơ “ xấu số “ này thì tôi nhớ rất rõ: Tôi ra phố Nha trang tìm mua báo BK theo định kỳ, đọc ở mục lục thấy có giới thiệu tựa đề bài thơ NDHLBB cùng số trang hẳn hoi – nhưng khi lật vào trong, thì chẳng thấy bài thơ đâu ! ?( bài thơ dài 2 trang/ 1 tờ báo_). Đọc trang cuối, cũng không thấy có lời “ xin lỗi & cáo lỗi “ gì của tòa soạn cả?
Sau dó mấy hôm, tôi có dịp vào Saigon, dĩ nhiên là tôi phải đến thăm tòa soạn BK – tìm ngươi “ chủ nhiệm & chủ bút “ Lê Ngộ Châu – dể “ thăm hỏi “ cho rõ.
Như mọi lần, ông thân tình tiếp tôi ở ngay bàn làm việc riêng của ông trên gác. Gặp nhau, tay bắt – mặt mừng, tôi chưa vội hỏi ông điều gì, ông đã sốt sắng giải thích bằng giọng ân cần , hối tiếc : “ Chúng tôi đã phải trễ ngày phát hành mất một tuần vì vài thơ của anh - nhờ nhiều người can thiệp, kể cả anh Võ Phiến - nhưng cuối cùng, để tránh bị lỗ - đành phải cắt bỏ trang thơ anh đi ! “- Tôi không hề có ý nghĩ trách cứ BK, mà chỉ nghĩ đến sự làm việc vô tư, cẩn trọng của Ông Lê Ngộ Châu ( cùng BBT/ BK ) đã luôn chọn dọc rất kỹ mọi bài vở anh em gởi về tòa soạn, đã có một chủ trương rất rõ ràng; luôn đứng về phía chân lý – giá trị văn học, mà không mấy “ nể sợ “ đến chiếc kéo của sở PHNT để cho tờ báo luôn giữ vững tôn chỉ phục vụ văn học, có giá trị bền lâu với thời gian; không phụ lòng ngưởi viết và bạn đọc…
Nghĩ chỉ vì bài thơ cỏn con của mình mà đã làm cho BK phải khổ, lận đận - nên tôi rất cảm thông với anh, và vô cùng trân quý tình cảm văn chương vô tư mà anh đã dành cho –Tôi nhận ra ở anh một sự hy sinh thầm lặng, một tấm lòng tận tụy vì sự nghiệp văn học ở BK trong bao năm qua…Sự “ phối hợp nghệ thuật “ của Bộ Văn hóa thông tin đã hạn chế biết bao tác phẩm, biết bao tấm lòng tha thiết với văn học, với Quê Hương…Bài thơ tôi viết về “ Những Dãy Hành Lang Buồn Bã “ ở QYV Nha trang là một thái độ phản kháng cuộc tương tàn, thù hận, và kêu gọi hòa bình, an lành cho tất cả ! Nhưng “ nó “ đã bị cắt bỏ! Viết mà không có Tự Do – thì tác phẩm chỉ còn là những xấp giấy vụn mà thôi!?
Tạp chí BK số 384, phát hành tháng 11 năm 1973 – đăng truyện ngắn “ Dì Lucia “ của tôi khi tôi còn măc tạm chiếc áo lính chứng tỏ – một lần nữa, BK không hề quan tâm đến sự “ gian khó ” sẽ đến cho tờ báo, mà luôn tôn trọng & yêu chuộng Sự Thật… ( Sau 75, nhà thơ Cao Thoại Châu khi đọc lại truyện ngắn này đã có câu hỏi : “ Giá như lúc ấy –năm 73, BK không đọc kỹ & chọn đăng “ Dì Lucia “ thì có lẽ, đã “ đánh mất “ một truyện ngắn hay của anh rồi phài không…?” Tôi đã đồng ý với anh ngay, bởi – thời điểm ấy – bài vở toàn sử dụng viết tay ( hay máy chữ)- một bản duy nhất ( vì sự bấp bênh của cuộc sống & điều kiện giới hạn)- thì “ Dì Lucia “ đã…bay về Trời từ lâu lắm rồi rồi! ) .
Năm 1988 – tôi lang bạt vào Saigon. Một buổi sáng cởi xe đạp tành tành đi ngao du phố phường Saigon cho đỡ buồn – tôi ghé lại nhà số 160 Phan Đình Phùng - tòa soạn BK ngày nào, để tìm chút “ dư hương” giữa Saigon giá lạnh. Cửa khép hờ. Tôi mạnh dạn mở lớn, bước vào - người tôi gặp đầu tiên là bà Lê Ngộ Châu. Với dáng vẻ thanh nhã, trí thức, lịch lãm mà giản dị – bà e dè hỏi : “ Xin lỗi, anh cần chuyện gì? “. Tôi nhìn thấy trong ánh mắt lo lắng của bà đã dần trở lại bình thường khi nhìn kỹ lại người tôi: Một gã quê mùa, xuềnh xoàng, chân chất - không phải là dân lừa đảo? Tôi cười thân tình; “ Thưa chị! Trước 75 tôi dạy học ở Tuy Hòa – sau này về lại quê nhà ở Bình Định . Lâu quá mới có “ dịp may” ( thật ra là tôi bỏ nhà lang thang ) vào Saigon, nên muốn đến thăm hỏi sức khỏe anh Châu một lát thôi… “. Bà lại nhìn tôi – mỉm cười : “ Xin anh cho biết quý danh? “. – “ Bà cứ nói lại giúp, có Mang Viên Long muốn thăm…”.
Bà Châu quay đi – lên gác, một thoáng, đã bước xuống, vừa đi vừa nói : “ Anh Châu mời anh lên chơi…”. Tôi bước lên phòng làm việc của anh ngày nào – căn phòng hơi chật, ánh diện sáng choang - rất ngạc nhiên, thấy anh vẫn ngồi ở chiếc ghế dựa bên cạnh chiếc bàn có nhiều sách báo, giấy tờ đang bày ra…Trông anh vẫn hồng hảo, mạnh khỏe – nhất là cũng với dáng vẻ điềm tĩnh mà gần gũi thân mật – anh đứng dậy bắt mạnh tay tôi : “ Mời anh ngồi chơi! “ - Anh rót trà ra tách : “ Mời anh…”.
Tôi hơi dài dòng về chuyến đi Saigon với anh một chút như lời tâm sự - anh hỏi : “ Còn quý anh em ở Tuy hòa thế nào, anh? “ – Tôi cười buồn : “ Vẫn vậy vậy thôi…”. Anh kể cho tôi nghe vài chuyên vừa xảy ra với BK, với thân hữu thân quen ở Saigon – nhất là với bản thân anh đã đôi phen “ được “ mời …
Lần sau, lại lang bang vào Saigon. Sau khi ghé thăm gia đình nhà văn Y Uyên ở Gò Vấp - tôi ghé thăm nhà văn nữ Minh Quân. Chị cũng là một thân hữu của anh em văn nghệ Tuy hòa thuở trước - Chị rủ tôi đi chơi lòng vòng Saigon. Đang buồn ( và thất nghiệp ) tôi chở chị trên chiếc xe đạp Mini mới của chị tà tà đến các công viên. Gần trưa, lại đi ngang qua đường Phan Đình Phùng. Tôi chợt nhớ anh Lê Ngộ Châu – đề nghị chị cùng vào thăm anh lần nữa dầu biết rằng, sự có mặt nhiều ở nhà anh là không thuận tiện cho anh lắm! Chị cười cười : “ Bạn của em, em vào thăm đi! Chị đâu có quen thân với ông ấy – chị ngại lám…? “. Thế là tôi lại vào thăm anh một mình - một lần nữa. Sau vài câu thăm hỏi tình trạng gia đình, công việc của tôi – ngẫm nghĩ giây lâu, anh nói : “ Không biết có còn gì nũa cho anh em mình? “.
Thế rồi bận bịu với cơm áo và nỗi bất hạnh riêng – tôi không có dịp “ thư thả “ để vào Saigon lâu ngày mà tà tà đây đó như trước.
Ngày anh ra đi vĩnh viễn tôi không thể vào Saigon để lần cuối được thăm & tiễn anh, mà chỉ đọc lại các bài ghi nhận trên mấy trang Website thân hữu và tin tức chuyền đi tù bạn văn Một mình đau xót cảm nhận thêm một sự mất mát lớn trong đời. Cuộc vô thường của trời đất… Hôm nay – gần dến ngày giỗ thứ 5 của Anh, nơi chốn quê nhà quạnh hiu này – tôi lại nhớ anh : “ Một nhà báo chân chính, tài năng , và vô cùng độ lượng đã suốt đời hy sinh cho sự nghiệp văn học…!” . Xin được thắp cho anh một nén hương muộn nhưng rất chí tình…

Quê Nhà, tháng 9 -2011.
MANG VIÊN LONG