Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2011

MẤY NGÀY TRƯỚC GIÁNG SINH Truyện Ngắn MANG VIÊN LONG





MẤY NGÀY TRƯỚC GIÁNG SINH


Truyện Ngắn
MANG VIÊN LONG




( Nhà văn Trần Hoài Thư- chủ biên tạp chí TQBT & ÂTQ đã sưu tầm từ: Tạp chí VĂN số Giáng sinh năm 1974 và đã giới thiệu trên
TQBT số 49 tháng 11 – 2011 - ký niệm Giáng Sinh- chân thành cám ơn THT đã gởi cho bản thảo đã bị thất lạc hơn 37 năm- MVL)


Tại X. tôi được Linh Mục Hiệu trưởng cho giữ chức giám thị của trường trung học S. Trường S. là một ngôi trường tư thục lớn vào bực nhất nhì của X. Trường gồm hai dãy lầu, dãy bên phải dành cho học sinh đệ nhất cấp, cũng là khu cho nam sinh. Dãy trái, tầng trên là các lớp đệ nhị cấp chung cho cả nam nữ, và các lớp đệ nhất cấp nữ sinh. Dưới lầu, ở phòng tiền đường trống, kế bên phải là phòng của Giám học, phòng Hiệu trưởng, cũng dãy này, phòng dành cho giáo sư được xây thêm bên cạnh. Phía sau, giữa hai dãy lầu, là Văn phòng. Một dãy hàng rào gỗ ngăn chia khu vực học sinh và nhân viên làm việc. Tổng giám thị, giám thị, thu ngân, sổ sách, được chia ra từng ngăn riêng. Học sinh có thể liên lạc với từng phần hành bên này hàng rào gỗ, và cũng có thể từ cửa phía sau nếu cổng trường phía sau đã đóng. Trường có hai lối ra vào riêng. Cửa trước dành cho nữ sinh và giáo sư, cửa sau dành cho nam sinh. Trong giờ học, các cánh cửa đều được đóng. Có người gác coi sóc mở đóng khi đổi giờ học. Chỗ tôi làm việc cạnh bàn của Tổng giám thị. Thường thì tôi thay thế Tổng giám thị, giải quyết hết mọi việc. Theo Linh Mục Hiệu trưởng, tôi phải quán xuyến như vậy, để niên khóa tới, tôi sẽ thay thế vị Tổng giám thị của trường, bởi vị này bận dạy.
Công việc thường ngày của tôi rất bận. Trường ít giám thị mà học sinh trên bốn ngàn, tôi phải cực nhọc với những giải quyết nhiều lúc không là của giám thị nữa. Từ việc liên lạc với gia đình học sinh, tiếp xúc thân nhân, kiểm soát việc ghi điểm, kiểm diện, sổ phát, nhắc nhở trật tự, đến việc điều động công tác mỗi liên lớp, cấp giấy vào lớp cho học sinh vắng mặt hoặc đi trễ, giữ gìn sổ sách hồ sơ học sinh; tôi cảm thấy công việc đã xoay tôi như một con vụ. Nhưng tôi rất ham thích với công việc của trường học. Những sinh hoạt của nhà trường, tôi đều tham dự, và đôi lúc, đề nghị với Linh mục Hiệu trưởng những dự định mới mẻ khác, cốt gây được một không khí tươi trẻ, vui nhộn song song với việc học. Tôi tự đứng ra trông coi một tờ đặc san. Tôi tổ chức một ban văn nghệ. Những ngày lễ, tôi đã dành thì giờ để nói chuyện một đề tài nào đó về văn chương, hay giáo dục, cho học sinh của trường.

Tôi nhớ nhất là những ngày lễ Giáng Sinh năm đó. Một tuần trước ngày tới hôm lễ chính, tôi cho phát hành ở các lớp một đặc san. Nhân ngày lễ, ngoài các phòng triễn lãm tranh, đồ nữ công, bích báo của các lớp, tôi chuẩn bị một đêm văn nghệ thực toàn hảo. Đêm đó, tôi ở lại trại sinh hoạt liên hoan với các lớp mà không trở về nhà. Tôi bỏ lễ nửa đêm để nói chuyện với Lam.

Lam nói chuyện với tôi không được tự nhiên. Có lúc như sợ hãi, có lúc như ngượng ngập, cũng có đôi lúc Lam tỏ ra nồng nhiệt, mạnh dạn, cứng rắn đến nỗi tôi không hiểu được nàng. Mở đầu, Lam có vẻ trách móc, hoặc dỗi hờn, giận tức điều gì. Tôi không để ý, bởi vì, thực tình tôi không nghĩ gì về Lam ngoài việc cảm mến năng khiếu văn nghệ, đầu tóc demi garçon, vóc dáng nhỏ nhắn của nàng. Trong câu chuyện, dần về sau, Lam trách thẳng tôi. Nàng dùng mấy chữ “ độc ác, lạnh lùng, vô tâm” để trỏ tình cảm của tôi với nàng. Tôt sửng sốt. Đến đây thì tôi đã hiểu được đôi phần thái độ của Lam lúc gặp tôi.

Tôi nhớ lại một lần Lam đi học trễ, vào xin giấy vô lớp, tôi đã quở trách nàng. Giống như những học sinh đi trễ khác. Lần thứ hai trong tháng, tôi không cho giấy phép vô lớp như lần trước vì Lam bị trễ quá mười phút. Nàng khóc. Tôi vì bận công việc không để ý tới. Thái độ Lam lúc đó ra sao, tôi cũng không biết. Hình như nàng đã nhìn tôi với cái nhìn vừa trách cứ, vừa dỗi hờn bâng khuâng. Thời gian sau, lúc tôi tổ chức một ban văn nghệ của trường, Lam làm trưởng ban văn nghệ đến gặp tôi ở phòng giám thị. Nàng có mặt trước mười lăm phút theo như giờ họp ấn định. Tôi có nói đôi câu với Lam, nhưng chỉ để vui đùa, hoặc bởi sự cởi mở thường ngày. Tôi nhớ tôi đã khen giọng hát Lam. Khen đầu tóc demi garçon. Khen nàng dễ thương.

Một tuần lễ sau đó, lúc vào bàn làm việc, tôi nhìn thấy tập vở để sẵn tại đó. Tôi liếc nhìn tên lớp, rồi gọi một học sinh mang lên trả… Tôi nghĩ có lẽ tập vở của một học sinh bỏ quên, có người nhặt được thảy vào bàn giám thị, để giám thị có việc làm. Khoảng hai ba ngày sau, tôi lại nhận thấy một tập vở khác nằm ở bàn. Lần này, vì trong giờ học, tôi thảy bỏ phía sau hộc bàn, chờ giờ chơi mới gọi trả lại. Tôi coi rõ tên, lớp, và tập vở học: Lê thị Kiều Lam, lớp đệ tam, vở vạn vật. Đến giờ chơi, tôi gọi học sinh cùng lớp, gởi trả cho học sinh có tên ghi ở nhãn, kèm theo lời quở trách nhờ nói lại, Lạ thay đúng vào sáng thứ hai, tôi nhận thấy quyển vở (tập vở cũ, môn vạn vật) lại nằm sẵn ở giữa bàn. Lần này tôi giữ tập vở, chờ giờ học, viết giấy gọi học sinh đến lớp kêu tên Lê thị Kiều Lam đến Văn phòng giám thị. Lam đến. Ngượng ngập. Tôi đã nặng lời với Lam hôm đó. Nàng khóc. Giống như hôm đi trễ không xin được giấy vô lớp. Nhìn thấy Lam khóc, quả thực là tôi hơi hối hận. Nhưng với một trách nhiệm đã lãnh, tôi không dễ chịu như những lúc sinh hoạt văn nghệ. Giám thị, đó là hình ảnh của một ông thầy tay cầm cái roi mây lớn, tay đặt sau đít, đôi mắt lườm lườm theo dõi học sinh. Còn tôi tuy chẳng đến thế, tôi không có cái roi mây, không có đôi mắt lườm lườm hung tợn kia, nhưng tôi phải có sự cứng rắn, nghiêm minh. Đời sống trong các chủng viện đã tập cho tôi một sự nghiêm khắc làm cho nhiều người khó chịu. Ðời sống kỷ luật khép kín và gò bó cũng tạo nơi tôi sự hẹp hòi, đến như ích kỷ. Tuy vậy, tôi luôn xét tôi, và rất may, bản tính tôi rất cởi mở, phóng dật nên có thể tránh bớt va chạm với học sinh hay người bên cạnh. Buổi sáng trách mắng Lam đã đột nhiên biến tôi sống trở lại với cái ảnh hưởng cũ. Lầm lì. Cộc cằn. Nóng nảy bất chợt.

Đêm hôm đó, Lam cho tôi biết nàng muốn gởi cho tôi một lá thư trong tập vở đặt ở bàn làm việc của tôi. (Những giám thị thuê ở ngoài phụ giúp tôi, đồng thời họ có một dãy bàn kê bên phòng chứa sổ sách). Tôi ngạc nhiên, có chút hối tiếc. Nếu tôi được đọc những lá thư đó? Tôi muốn thử coi nàng còn nói thêm điều gì nữa nên tỏ lộ sự ân hận. Tôi ân cần xin lỗi nàng. Lam đã xúc động khi nghe tôi nói thế. Nàng hết vẻ ngượng ngập hay lạnh lùng, bây giờ tôi nghe thấy giọng nàng như một tiếng chim buổi sáng. Nàng nói biết tôi là thế nào, nhưng không hiểu sao lại yêu thương tôi. Hình ảnh tôi đã ám ảnh nàng rất nhiều, đến nỗi không học được. Nàng kể cho tôi nghe, những giờ ra chơi, từ trên hành lang lầu một, nhìn xế xuống chỗ tôi ngồi mà tôi không biết. Mỗi buổi sáng, khi tôi nói chuyện ở máy phóng thanh, nàng đều theo dõi rất tường tận. Ngay cả việc ăn mặc thường ngày của tôi nữa. Hôm nào tôi mặc chiếc áo dài đen đã cũ, cổ sờn rách, hôm nào mặc áo mới, vân vân. Nói tóm đêm đó, nghe Lam nói tới điều gì, tôi cũng ngạc nhiên, và cảm thấy lạ lùng.Những tháng về sau, tôi thường viết giấy gọi nàng xuống phòng giám thị. Dĩ nhiên là để hỏi, và nói những chuyện lặt vặt, cho vui. Tôi cũng cảm thấy, từ đó, tôi khó xóa bỏ hình ảnh Lam trong đầu. Tôi viết được mấy bản nhạc, nhờ những cảm nghĩ xúc động về nàng. Làm được bản nhạc, tôi sao chép cẩn thận, gọi nàng xuống tặng nàng với tất cả hân hoan. Lam cũng rất thường viết thư gởi tôi, bằng cuốn vở vạn vật để ở bàn, hay trong hộc tủ.

Sang niên khóa mới, tôi được Linh mục Hiệu trưởng cử làm tổng giám thị. Giúp việc bên cạnh tôi có một tu sĩ probation libre. Anh ta trang tuổi tôi, đi giúp ở một trường trung học ở Y. vừa đổi tới. Khác tôi, anh ăn mặc tự do, đời sống cũng phóng khoáng tự do hơn. Ngày đầu gặp anh, tôi đã hiểu được đôi nét cá tính của anh ta qua cách ăn mặc chải chuốt, những ngôn từ trong lúc nói chuyện. Anh ta còn cho tôi biết Ngọc, anh chàng giả làm Huyền Trân lúc nọ, đã xin ra khỏi chủng viện, sống với một người con gái vừa tốt nghiệp trường Nữ hộ sinh quốc gia, ngay tại Huế. Tôi chợt hiểu tại sao những thư gởi thăm tôi, cha Châu đều không nhắc tới Ngọc. Lúc này, tôi mới hiểu tại sao Ngọc có thể nói giả giọng gái Huế một cách tài tình như thế. Tôi cũng hiểu được, trong những giờ bắt buộc như giờ kinh, giờ nguyện gẫm, giờ giảng, nhất là giờ nguyện gẫm, huấn đức, tại sao Ngọc lại vắng mặt. Có lẽ anh ta phải “nguyện gẫm” một mình?

Có thể nói năm thứ hai ở trường S. là năm tôi khổ tâm nhiều hơn hết, mặc dầu bên cạnh tôi có Đức (tên người bạn ở thời kỳ probation libre) phụ giúp, và trường tăng cường thêm hai giám thị nữa. Năm này, tôi về sống chung với Đức trong một căn phòng thuê được ở một đường hẻm. Quả thực như tôi đoán, Đức rất phóng khoáng và có tâm hồn. Chúng tôi dần dà kể hết những tâm sự, vui buồn, sâu kín nhất cho nhau nghe. Đức bị cha sở ở Y. đề nghị thuyên chuyển tới Y- để cảnh cáo lần đầu, theo lời cầu của anh, về một chuyện tình với một người bạn gái cùng nơi trọ. Nguyên cô gái là người có đạo, trước cũng học ở T. (trường trung học công giáo ở Y.) nhưng thi hỏng tú tài một, ở nhà tự học để thi. Cô ta biết Đức, rất rõ. Nàng lân la làm quen, rồi mời đến nhà giới thiệu với cha mẹ, sau đó Đức phải nhận nàng làm “con nuôi tinh thần” theo lời nài nỉ của nàng. Từ đó những liên hệ trở nên mật thiết hơn, gần gũi hơn. Chuyện đến tai Linh mục Hiệu Trưởng T., năm sau Ðức phải đổi đi.

Tôi cũng đã kể đầu đuôi câu chuyện với Lam cho Đức nghe. Anh ta an ủi, và khích lệ tôi. Chính Đức đã khuyên tôi cùng đi với anh lên phố tìm mua một chiếc bím tóc mầu, gởi tặng Lam để đền lại những quà tặng của nàng. Thực là buồn cười, sau khi nghe Lam giải thích tại sao không dùng cái bím tóc tôi tặng, mà dùng cái cũ: tóc nàng ngắn, theo kiểu demi garçon mà tôi lựa mua cái dành cho tóc dài.

Ðồng thời với sự liên lạc thường xuyên như vậy, tôi cảm thấy một nỗi khó khăn, một tình cảm gần như phạm lỗi. Không ngờ sự ray rứt, băn khoăn của tôi Lam đã nhận biết. Nàng viết gửi tôi liên tiếp ba lá thư trong ba ngày, trách tôi đổi thay, hay hờ hững. Quả thực, trong đôi lần gặp nàng, tôi muốn lẩn tránh. Tôi gặp nàng, đôi khi như một cố gắng. Không còn cái nao nức đón đợi. Hết cái nồng nàn âu yếm.

Cũng có nhiều lúc, tôi muốn như Ngọc. Tôi thử để tình cảm tôi, nỗi xúc động tôi chảy đến đâu thì đến. Ra sao thì ra. Đó là những hôm tôi hẹn cùng Lam đi chơi ở quê, hay đến nơi tôi trọ. Trong những hôm như vậy, tôi cảm thấy rộn rã, một niềm vui nào thực tươi mát và phấn khởi xâm chiếm lấy tôi. Chúng tôi xa lánh thành phố, hẹn nhau ở quán nước một ngã rẽ đi N. Nàng đi xe Yamaha dame. Tôi dùng chiếc Honda của nhà trường cấp. Thế là chúng tôi cứ đi mải miết vào xóm, dừng lại những nơi muốn dừng và nói hết nỗi lòng, những mơ ước của nhau, về một tương lai sum họp.
Tôi nhớ lần đầu tiên hôn Lam sau một ngôi chùa, sau khi chúng tôi thử vào xin một cái xăm. Xăm xin được, theo lời Thầy trụ trì, không được tốt. Lam thi hỏng. Rồi chúng tôi không thể gần nhau. Nghe nói, Lam chạy ùa ra phía sau khóc. Tôi hôn nàng. Lòng tôi bây giờ thực yếu mềm. Tâm trí tôi hoang mang cùng độ. Tôi an ủi nàng bằng lòng tha thiết của mình. Nàng hỏi tôi, nếu lỡ nàng thi hỏng, tôi còn thương nàng hay không. Tôi nói nàng đừng nên hỏi những câu vớ vẩn, đừng lo những mối lo không đâu. Tôi không yêu thương nàng bằng chuyện đó, nhưng tôi hứa sẽ gởi Lam cho những người bạn giám khảo ở X. Thời gian sau này, nhớ tới lá xăm, chúng tôi chỉ nhớ tới những nụ hôn; bởi vì chúng tôi sống rất gắn bó và nồng nàn. Ở trường về, tôi thay bộ áo quần của Đức tìm cách gặp nàng. Nếu là ngày chúa nhật, ngày lễ, chúng tôi đều có bạn.
Có một buổi sáng chúa nhật Lam đến trễ giờ hẹn mười lăm phút. Tôi đã trách cứ nàng. Thực ra, vì quá nóng lòng và bộc chạt, tôi nghi ngại nàng không thành thực. Lam giận. Nàng bỏ tôi. Sau đó, cả hai cùng vòng xe đi kiếm nhau, nhưng không gặp nhau được. Suốt một tuần lễ tôi không gọi nàng xuống văn phòng như bấy khi vẫn làm. Tôi cố gắng giữ cơn giận lâu hơn, để coi Lam sẽ thế nào. Đáp lại, nàng cũng im lặng, ơ hờ. Tôi nhận thấy, trong dáng vẻ lạnh lùng đó, có một cái gì khổ sở, thất vọng. Trong giờ học chiều thứ hai, tôi gọi tên Lê Thị Kiều Lam xuống văn phòng.
Tôi điềm nhiên hỏi :
- Sao? Dạo này cô có mạnh khỏe không?
Lam hơi mím môi :
- Vẫn mạnh luôn.
Tôi cười:
- Còn giận hết ?
Nàng nhìn tôi, ánh mắt thực sáng:- Hết rồi.
Tôi viết lên mảnh giấy: “Nếu hết giận tuần này anh đợi em ở chỗ cũ, tám giờ sáng, nhé?”, đưa cho Lam. Nàng cúi đọc, ngửng lên mỉm cười, gật đầu. Sự nhỏ nhắn của nàng trong chiếc jupe màu xanh nhạt khiến tôi thấy nàng thực tội nghiệp.

Giáng sinh năm đó tôi và Lam ăn lễ trước một ngày bởi vì trong suốt ngày và đêm lễ chính tôi rất bận. Buổi sáng chúng tôi đi chơi ở quê đến xế chiều mới trở về thị xã. Dịp này tôi có mang theo chiếc máy ảnh của Đức. Tôi chụp cho Lam. Chúng tôi cũng có chụp chung mấy pose, nhờ một người lính chịu chơi và đa tình làm phó nhòm hộ. Buổi tối, chúng tôi ăn tiệc ở nhà. Đêm đó Đức đã chuẩn bị sẵn để rời phòng trước khi Lam đến nửa giờ. Tôi coi đồng hồ đúng giờ hẹn, thắp sáng hết những ngọn đèn sáp trên bàn, ở lồng đèn, trong hang Bê-lem. Trời đổ mưa nhẹ, nhưng gió lộng. Một chút hơi lạnh đủ để mặc tấm áo len ngắn tay. Để đốt một điếu thuốc chờ đợi.
Lam đến. Thực rực rỡ và xinh xắn. Nàng mặc jupe màu xanh, bím tóc đỏ, đi giày da. Gương mặt nàng hiện ra ở khung cửa sổ như một Giáng Kiều. Tôi đón Lam, trước hết, bằng cái hôn thực ấm.
Tôi hỏi:
- Ngoài phố có vui không?
Nàng ngồi cạnh tôi:
- Em đi một mạch đến đây, không để ý gì hết.
Tôi choàng tay qua vai Lam, nhìn vào gương mặt hơi ngơ ngác của nàng:
- Em lạnh lắm không?
Nàng ngước mắt nhìn tôi, nở nụ cười:
- Lúc nãy thì có, bây giờ hết rồi.
Tôi cúi hôn lên tóc nàng. Mùi nước hoa phảng phất, dìu dịu. Lúc này, nàng mới hết vẻ sợ sệt, lo lắng của lúc mới đến. Trong ánh sáng lung linh của những ngọn nến, gương mặt Lam tươi tắn, đỏ hồng. Đôi mắt rực sáng.
Lam giở xắc lấy ra một gói giấy, nàng hỏi đố anh những gì trong này. Tôi cười, anh chịu. Mắt anh đâu phải mắt thánh mà nhìn suốt lớp giấy dày đó. Tức thì nàng mở ra cho tôi xem. Đó là một tấm đá cẩm thạch, khắc hai chữ: François Xavier-Marie. Tôi bồi hồi. Lam sung sướng khi nhìn thấy tôi câm lặng vì ngạc nhiên và xúc động.
Tôi hỏi : - Em thuê làm bao giờ?
Nàng cười:
- Đố anh?
- Anh chịu thua. Cái gì em cũng ưa đố anh. Em làm như anh là học trò.
- Chứ anh là gì của em?
- Là gì cũng được.
- Em muốn chúng ta là những người học trò trong tình yêu.
- Anh cũng muốn vậy.
- Thì trả lời mau lên.
- Em thuê làm hôm chúa nhật?
- Sai rồi. Chúa nhật ai đi chơi với anh?
- Chứ bao giờ ?
- Trong tuần lễ em giận anh đó. Anh coi, nàng lật tấm đá ra phía sau, có ghi ngày tháng đây này.
Tôi cảm thấy chưa có một mùa Giáng sinh nào tôi được hạnh phúc như vậy. Năm ngoái, tôi nhìn Lam với cái nhìn ngó dửng dưng, với sự tạnh không của tâm hồn. Đêm Giáng sinh, khi nghe chuông lễ nửa đêm đổ, tôi nói chuyện với Lam gần như là đùa cợt, bâng quơ. Hơn một năm trôi qua, phút này hình ảnh Lam đã trở nên hình ảnh của hạnh phúc, của nguồn vui và hy vọng của đời sống tôi. Nàng còn dự phần chính trong quyết định mà những tháng sắp đến đây tôi sẽ trình bày với Cha Châu. Tôi chọn lựa con đường đi vào đời cam khổ, phấn đấu sắp đến, cũng vì Lam. Lam đã khiến tôi khổ sở trong nhiều tháng nay, để chọn lấy một thái độ. Một cách sống.
Sau cùng, tôi cảm thấy phấn khởi và tin tưởng, để gần Lam. Hình ảnh những mùa Giáng sinh cũ trong ký ức chạy thoáng qua, tôi rất đỗi ngạc nhiên khi nhìn thấy bóng dáng mình thấp thoáng trong đó. Những ngày Giáng sinh hồi còn ở Làng Sông, cái không khí tĩnh lặng, cái buồn bã khép kín không xóa hết được cho dầu những sinh hoạt những ngày kế cận có được tổ chức. Chúng tôi đi chơi ở miền núi. Những năm sau, chúng tôi được đi chơi tập thể ở bờ biển Qui Nhơn. Hồi về sống ở khu La San tuy cái không khí ít u mặc, ngưng đọng, nặng nề như ở Làng Sông, nhưng nỗi tẻ lạnh không vơi trong tâm hồn tôi. Trái lại, thời gian này, tôi hiểu được tương lai tôi, những ngày sống khép kín nghiêm nhặt làm tôi bỗng nhiên đôi lúc thấy ngơ ngác. Ở Đại chủng viện, tuy sinh hoạt được tự do hơn xưa; đời sống thoải mái, nhưng cũng từ đó, trong tôi nhen nhúm một nỗi mơ ước đi xa.
Lam nắm lấy bàn tay tôi đặt lên ngực nàng:
- Anh mơ nghĩ gì thế?
Tôi vẫn còn bàng hoàng. Thời gian êm ả cùng đời sống thầm lặng, lủi thủi ở ký túc xá, còn đứng lại trong đầu tôi. Tôi đưa bàn tay Lam lên môi. Tôi nói: “Anh nghĩ tới ngày mai, những ngày Giáng sinh sum họp của chúng ta”.
Lam thơ ngây:
- Không còn xa nữa đâu, anh nhỉ?
Tôi đáp:
- Chẳng còn lâu đâu. Như đã định với em mấy lần trước, hè này anh ra lại Huế, gặp Cha Châu. Sau đó anh vào Sàigòn trong hai năm, học xong hai chứng chỉ chót, anh sẽ trở về...
Lam nhắc:
- Nếu em thi hỏng, anh còn thương em không?
Tôi cười :
- Đừng nói bậy nữa. Chuyện đó, anh đã lo sẵn cho em rồi.
Chúng tôi cũng dùng những món ăn nguội đã sắm sẵn từ buổi chiều mà Đức đã chịu khó đi tìm giúp. Một con gà quay. Bánh mì. Chả lụa. Nem nướng. Hai hộp bánh ngọt. Bấy nhiêu đã quá đủ cho chúng tôi mừng đêm Chúa giáng sinh. Tôi uống bia, còn Lam uống Coca pha một ít bia từ ly của tôi. Gần Lam, được sống cùng nàng những giây phút ấm áp và quấn quít như vậy, tôi thường nghĩ tới những ngày ở các trường học. Hình ảnh tôi trở lại một cách rời rạc và xa lạ làm sao. Tiếp theo, khi cố xua đuổi những bóng dáng lầm lũi câm lặng đó, tôi nghĩ tới một mái gia đình. Một sum họp. Điều này bao giờ cũng làm tôi chếnh choáng, tôi tưởng như bị lạc vào một cõi nào thực xa.Trước khi đưa Lam trở về, tôi ôm hôn nàng thực lâu. Dường như tôi bị say. Lam vừa rời tay tôi ra khỏi cửa, bỗng chạy vào ôm lấy cổ tôi, nàng hôn tôi như một đứa trẻ.


Tôi không biết diễn tả thế nào để có thể nói được đôi phần cái tâm trạng tôi khi rời hẳn Đại Chủng Viện Xuân Bích. Khi xa cha Châu, người Cha Linh hướng đã giúp tôi tu học, hướng dẫn tôi vượt qua được những cơn khủng hoảng tối tăm của tâm trí. Rời Ðại Chủng Viện lần này, tôi biết rằng, tôi sẽ rời xa nó mãi. Nếu có dịp tôi trở lại, cũng là sự trở lại của một kẻ ở ngoài, một du khách hay một tìm về lạc lõng, bơ vơ. Rời phòng Cha Bề Trên, đi giã biệt quí Cha giáo sư, tôi cảm thấy vừa nôn nả, vừa ngại ngùng. Cụ Sau, giáo sư Thần học, nhìn tôi với đôi mắt sâu thẳm, ưu tư hơn Cha Nhân, giáo sư Cựu ước, lặng lẽ và trìu mến. Các giáo sư như Bouyer, Nguyễn Hữu Ðăng, an ủi và cầu chúc tôi như một đứa con sắp rời gia đình đi vào chốn khó khăn, nguy hiểm. Chỉ có Cha Michel Barnouin (mà chúng tôi gọi là Cao Như Sơn), cười nói rất bình thản khi nghe tôi giã từ ông.
Bây giờ, nghĩ nhớ lại, tôi hiểu tôi lúc đó bị dằn vặt bởi những lời nguyện ước, và những mơ ước về đời sống: Tôi bị lạc lõng, hơi lo sợ và cũng có một hạnh phúc êm ái. Tôi từ giã các bạn còn lại mà không lời giải bày, bởi vì, tôi không thể nói gì được khi tôi đã nghĩ và quyết định trái ngược với họ. Tuy thế, họ đã hiểu tôi, rất niềm nở và tự nhiên, với sự ra đi vĩnh viễn của tôi. Có lẽ, họ coi tôi đáng thương hại, hoặc không đáng chê trách, khi tôi không đủ ý chí, nghị lực, cũng như không đủ ơn phước để nhận lãnh ơn nghĩa Thiên Triệu thiêng liêng. Tôi là một kẻ đã bỏ cuộc. Tôi chọn lựa một cuộc đời sống khác, hợp với bản chất và lòng mơ ước tự nhiên của tôi. Ngày gặp Lam, tôi tự nhủ, hãy cứ để tình cảm trôi chảy, cứ việc sống hồn hậu và nồng nhiệt theo tâm hồn. Bây giờ, tôi đã bị trôi đi, bị cuốn hút vào một giòng nước mạnh mẽ, tôi không thể cưỡng lại. Nói cho đúng, tôi không muốn cưỡng lại. Ngày mẹ tôi được tin tôi vào đời, bà tự nhiên không nói. Trên gương mặt bình thản, đầy ắp tình thương của bà, tôi biết bà không trách tôi. Hình như bà cho tôi làm vậy, là một việc không có gì để nói.

Tôi vội vã trở lại X. khi mùa Hè sắp đến. Tôi gặp lại Lam. Chúng tôi tiếp tục sống với những hò hẹn, gặp gỡ, và cuồng nhiệt được mấy tuần trước ngày tôi đi Sàigòn thực hiện những dự tính mà tôi đã nói với Lam. Lam thường đến với tôi, sau bữa cơm chiều, cho đến mười giờ đêm mới về nhà. Tôi tạm trọ chung với Đức. Nhưng tôi và Lam hoàn toàn tự do, bởi Đức thường vắng mặt giờ đó. Hơn nữa, Đức tỏ ra một người sành sỏi, đã tạo dịp thuận tiện cho chúng tôi sống những ngày sắp xa nhau. Lam thường đến, mini jupe màu, giày da, tóc cột bím, mắt sáng, môi đỏ, nụ cười hồn nhiên, tấm lòng dào dạt khao khát. Gặp nhau Lam như vừa lo sợ xa cách và tham lam, ôm chầm lấy tôi, không rời. Tôi bồng nàng lên ghế như một con búp bê. Đôi khi, tôi bị lôi cuốn bởi Lam, con sóng dào dạt, không ngăn được những khao khát sôi nổi bừng nóng trong lòng. Chúng tôi nằm ở giường cho đến giờ Lam phải trở về. Tôi không thể kéo dài thêm một vài ngày nữa với Lam bởi vì chuyến bay tôi đã ghi trước, mọi việc đã được thu xếp chuẩn bị. Buổi sáng hôm ra đi, tôi không muốn Lam đưa tiễn. Chúng tôi đã đưa tiễn nhau mấy hôm trước rồi. Nhưng lúc Đức vừa chở tôi đến trạm hàng không thì tôi nhìn thấy Lam ở đó. Tôi trông thấy nàng ngơ ngác và tội nghiệp. Nàng có vẻ sợ hãi. Vẻ mặt xanh xao. Ánh mắt lạnh lùng kia làm tôi nao núng lạ. Tôi nghe tôi khóc trong lòng. Tôi thấy tôi chếnh choáng. Gặp tôi, Lam chỉ trao tôi tập Văn số mới đặc biệt về Simone De Beauvoir, rồi lẳng lặng đi về. Tôi muốn giữ nàng lại, muốn được nhắn nhủ (cho dầu suốt mấy tuần qua đã nhắn nhủ), muốn ôm hôn nàng (dầu tôi đã hôn nàng chiếc hôn từ giã từ tối hôm trước). Nhưng Lam đã bỏ đi.

Trong tập báo nàng trao tôi, có một lá thư:

X. Đêm 5 tháng 7 năm 1970
Anh yêu dấu,
Mai anh đi rồi, để lại cho em sự cô đơn và buồn bã cũ. Và nỗi thương nhớ không nguôi. Sự chia lìa đã đến thực rồi. Em phải làm sao đây? Làm sao để níu kéo lại những ngày yêu nhau cũ. Vậy mà những ngày qua em vẫn còn mù mờ không nghĩ rằng anh sẽ xa em, sự xa cách đau khổ cho em biết chừng nào. Đêm qua, rời anh trở về, em suy tư và nghĩ ngợi về anh quá nhiều. Em nhớ anh - nhớ ngay cả trong giấc ngủ nên không thể bình thản để học hành. Anh đã lấy mất linh hồn và thể phách em tự lúc nào. Xa anh trở về, mang theo nỗi buồn trống vắng, nỗi cô đơn, sầu thảm nào đang vây bọc quanh em. Anh yêu dấu muôn đời của em, nhớ lại những ngày tháng xa, những lúc cùng anh vui chơi, em đã khước từ những mê đắm, những ôm ấp thương yêu nhưng anh biết đâu đó chỉ là cái váng nổi của một phần con người thực trong em, để rồi, buổi chiều, buổi sáng em đã nằm mãi, mơ mộng mãi, không thể học, không thể ngủ, không thể làm được một cái gì. Điều nào ước muốn đang lẩn khuất, hành hạ trong em.

Anh yêu dấu,Cho em trở lại những ngày đầu tiên thần tiên đẹp đẽ. Anh ơi, đây là hành lang, dưới kia là văn phòng, anh đang làm gì, đang nghĩ gì? Xin hãy ngước nhìn, có em đứng đây với vô số những miên man suy tưởng. Ôi, chuyến đi xa, mi đã tạo ra một khoảng cách giữa ta với người. Tội nghiệp cho ta, cho đôi mắt mê mải nhìn. Anh có còn nhớ không giờ lễ nửa khuya Giáng Sinh năm kia, chúng ta đã nói chuyện quên ngủ. Mới đây, mùa Giáng Sinh tuyệt vời nhất đời em, bên cạnh anh. Buổi sáng rong chơi khắp miền ngoại ô. Buổi tối ấm cúng bên nhau, trong nhau, bên ánh đèn mờ tỏ. Và những ngày say đắm nhất, in khắc vào tâm hồn em nhiều nhất, vừa mới vuột khỏi tầm tay em, sáng hôm nay.

Anh yêu dấu,Anh đi rồi. Em phải làm sao đây khi sự xa cách quá lâu? Dù muốn hoặc không thì bây giờ cũng không thể nối tiếp lại những ngày vui cũ. Thôi hết rồi những lần hẹn hò chờ đợi. Thôi hết rồi những lần quấn quít bên nhau quên cả giờ về. Anh ơi, từ đây một mình sao em có thể trở lại chốn cũ. Nhìn tên thánh của hai đứa đã khắc sâu vào phiến đá? Xa anh rồi, tâm hồn em lạnh lẽo, bây giờ càng lạnh lẽo xa vắng hơn. Đầu óc em mê muội, trí óc em bồng bềnh trôi nổi. Trời ơi, thế này mãi thì làm sao em học được. Anh ơi, nếu em thi rớt rồi anh có còn yêu em không? Hay lúc đó, bao nhiêu tình cảm đều tiêu tan mất? Em sợ lắm. Sợ vì xa cách anh sẽ quên em mất thôi.

Em của riêng anh,
Lê Thị Kiều Lam

Tôi viết thư cho Lam mỗi ngày khi đến Sàigòn. Cuộc sống mới, hoàn toàn xa lạ, đã làm tôi càng ao ước được trở về với Lam - sống thu nhỏ trong một khu vườn, một mái nhà. Tôi đã phải phấn đấu và nhẫn nại với sự chọn lựa một cách khổ sở. Lam gởi thư thường xuyên, giống như tôi, mặc dầu nàng nói đang bận lo học thi. Tôi có viết thư gởi Lam cho vài giáo sư quen, nhưng họ đã đến một nơi khác. Tôi không nhắc đến chuyện này, ngại nàng buồn. Hơn nữa, nhắc tới thi cử, là nhắc lại câu hỏi: “Anh ơi, nếu em thi rớt, rồi anh có còn yêu em không?”, càng khiến nàng lo lắng, và tôi buồn bực. Tôi cũng không hiểu lý do gì, vì đâu, đã khiến Lam cứ nhắc lui tới việc thi cử của nàng, rồi coi đó là một yếu tố quyết định tình yêu. Nàng cũng không ngớt sợ hãi, hoang mang bởi sự xa cách. Một thư nàng viết: “Anh ơi, có đang buồn, có đang nhung nhớ, có đang thao thức như em? Sao em nóng cả ruột gan, không thể vùi đầu vào chăn gối, vào giấc ngủ. Thôi em thức mãi nghe anh? Em thức để nhớ tới ai đã đến và đã xa khuất nẻo mù tăm. Hai năm, hai năm nữa, ta mới thực là của nhau cho suốt một đời. Biết em có còn sống để chờ đợi, biết anh có mãi mãi nuôi dưỡng một tình yêu nhỏ dại, hay rồi anh ơi, đây chỉ là giấc mơ, một tấn kịch trong đời em ngắn ngủi?” Sự hoang mang của Lam chuyền đến tôi như cơn bệnh truyền nhiễm hiểm nghèo. Tôi muốn trở về X. Muốn chung sống bên Lam. Tôi đã thay đổi được đời mình thì tôi cũng có thể khước từ hết thảy mọi thứ ở đời để chỉ cần có nàng. Trong lúc chờ đợi sự quyết định dứt khoát, tôi gởi tặng nàng chiếc nhẫn cưới. Đáp lại, Lam gởi tôi sợi dây chuyền có thánh giá thường ngày vẫn đeo ở cổ. Sau đó, những thư của nàng vơi bớt buồn rầu, cái ý nghĩa ly biệt mù tăm cũng tiêu dần, nhường lại cho những kể lể kỷ niệm, những dặn dò hy vọng. Một thư nàng viết: “Anh ơi, buổi sáng nào cuối, sao anh chẳng hôn em. Anh quên hôn em mất rồi anh ạ. Em muốn đứng lại, cố níu kéo nhưng không thể làm khác hơn là quay đi. Em nhìn theo anh từ một góc đường mà không dám đưa anh đến tận nơi vì ngại gặp mặt, phải chào hỏi người ta. Nên để anh đi, không một vẫy tay đưa tiễn, một lời cuối dặn dò. Nhìn chuyến xe ca chở anh rời thành phố mà em không ngăn được những giòng nước mắt âm thầm chia ly.”

Tôi được Đức viết thư báo tin Lam thi hỏng tú tài. Dù chưa nhận được thư chính thức của Lam nói về chuyện này, tôi vội vã viết một lá thư an ủi và phân tích những ý nghĩ không chính xác, nông nổi của nàng về việc thi cử. Tôi chờ tin. Một tháng trôi qua. Tôi sống trong cùng cực lo âu và thất vọng. Tôi trở về X. muộn bởi đang phải lo thi. Vừa tới X. tôi cùng Đức đến ngay đường Cao Thắng, số 32. Với tư cách là giáo sư và Tổng giám thị trường S. (Đức lên làm Tổng giám thị trường S. từ khi tôi ra đi), Đức hỏi người nhà cho gặp Lê thị Kiều Lam để có việc cần. Làm lại hồ sơ gì đó. Người nhà vào trong, trở ra thưa không có Lam ở nhà. Chúng tôi ra về. Một tuần lễ lưu lại X, tôi luẩn quẩn hoài bên khúc đường Cao Thắng, hy vọng sẽ gặp Lam, nhưng vô ích. Bên này một quán nước, từ tám giờ sáng đến mười hai giờ trưa, tôi nhìn ngó sang nhà Lam. Buổi chiều, từ hai giờ đến sáu giờ. Suốt một tuần như thế. Đức cũng không giúp tôi gì hơn sau lần cùng tôi đến nhà. Anh ta nói cũng không hiểu được. Quả thực, tôi cũng không hiểu.

Khi rời X. vào lại Sàigòn, tôi nhờ Đức đến nhà trao hộ Lam lá thư cuối cùng của tôi. Tôi gọi là cuối cùng, bởi vì, tôi đã viết nó với tâm trạng và lời lẽ của một người vĩnh viễn ra đi. Đến nay, tôi không còn nhớ hết tôi đã nói những gì trong ấy, nhưng tôi biết chắc rằng tôi đã bày tỏ hết nỗi thất vọng, đau xót của tôi vì sự tan vỡ, vĩnh biệt này. Với Lam, tôi nghĩ, có lẽ bởi tuổi trẻ và sự hoang mang dễ bị lung lạc để thất vọng, nàng đã không thấu hiểu hết tôi.

Ở Sàigòn khoảng vài tháng, sau đó, tôi xin làm giáo sư khế ước, được bổ nhiệm tới dạy tại P. một thị trấn miền duyên hải Trung phần. Đó là một nơi thực tĩnh lặng, và heo hút.

Tôi là người luôn luôn đến trường sớm nhất. Lý do: Không có đồng hồ, nằm mãi trong phòng suốt buổi sáng (tôi chỉ dạy một buổi chiều), nên muốn được ra ngoài. Hằng ngày, hễ tôi mở cửa bước ra là để đi dạy, còn trở về thì nằm lì luôn. Cơm nước đã nhờ đứa nhỏ ở cạnh lên hiệu ăn xách về giúp. Tôi trở nên trễ nải trong việc giao thiệp, và lười biếng trong việc ăn mặc. Hơn nữa ở trường, giáo sư trên ba chục nhưng nghe nói phe phái đã có tới ba bốn nhóm. Họ ăn nói gìn giữ, kênh kiệu, khách sáo thái quá. Ai cũng nghĩ rằng mình là một người quan trọng. Bởi thế, cách ăn mặc họ cũng phải tỏ ra là như thế: cà-vạt luôn luôn dính vào cổ, ngay cả những ngày nóng bức. Có người mỗi ngày một bộ đồ, một chiếc cà-vạt. Màu sắc phải harmonie.

Tôi ngồi ở dãy ghế dựa nhìn ra ngoài sân. Học sinh đã đông. Trời buổi nhiều nay tạnh ráo, nhưng gió lạnh. Những cành dương trong sân trường xơ xác sau những ngày mưa bão lụt lội. Đứa con gái người phu trường mang hai bình nước trà đặt lên bàn. Tôi chồm tới rót một tách nước trà nóng. Tôi bỗng nhìn thấy tấm bảng kê ở vách thấy ghi: “Yêu cầu quí vị Giáo sư nộp phiếu điểm tháng 12 cho Văn phòng kịp làm thành tích. Hạn chót: Trước ngày nghỉ Noel”, phía trên hàng chữ cũ vẫn không xóa: “Yêu cầu quí vị Giáo sư dạy dỗ như thường vì lụt đã rút hết nước. Văn phòng”.
“Hạn chót trước ngày nghỉ Noel”, tôi đọc thầm. Lại một mùa Giáng Sinh nữa sắp đến. Chỉ còn bốn hôm. Thốt nhiên tôi đưa tay lên cổ, cầm chiếc thánh giá của sợi dây chuyền, nói khẽ: “Bây giờ Lam ở đâu? ”

MANG VIÊN LONG

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

BÊN TÁCH TRÀ KHUYA Truyện Ngắn MANG VIÊN LONG



BÊN TÁCH TRÀ KHUYA


Truyện Ngắn
MANG VIÊN LONG



Nghe tiếng ông Cổn từ đầu ngỏ, nhìn thấy dáng ông lừng lững bước vào sân – ông Thạch rất ngạc nhiên. Cảm thấy lạ. Đã chạng vạng rồi, ông ấy còn tìm đến làm gì nhỉ? Bấy lâu nay gặp nhau, hẹn hoài. Rồi trôi đi như bao việc khác đã lạnh lùng trôi đi, nhưng ông Thạch không hề trách bạn. Ông hiểu ông Cổn – coi nhau như ruột thịt, ngay từ lúc ông ta từ miền Bắc trôi dạt về quê…Ông Thạch vẫn nghĩ, cứ để ông ấy muốn đến lúc nào thì tùy, bởi cuộc sống của ông cũng đang bấp bênh, chật vật – đâu có êm ả gì mà giữ đúng hẹn?
Ông Thạch không còn ở nhà cũ của hai đúa con nữa. Ông đã quyết định không về ở với đứa con nào trong hai đứa con của ông từ hơn một năm nay rồi. Ông dành dụm được chút tiền đến mua một mảnh đất nhỏ gần tám mươi mét vuông, rồi dựng tạm mái nhà tranh trong khu vườn của người bạn học cũ năm xưa đã trở lại quê chuyên nghiệp trồng trọt, chăn nnôi từ sau ngày đổi thay 30 tháng Tư năm ấy bán lại…
Trong gần 5 năm sau khi bán đi ngôi nhà ở phố san sẻ đều cho hai con – Ông đã luôn di chuyễn từ nhà đúa con gái đầu, đến nhà người con trai út – nhưng nơi ông “ trụ “ lại tương đối lâu hơn, vẫn là nhà của cậu An. Ì ạch chuyện thi vào đại học mấy năm vì cái lý lịch – cuối cùng, An cũng xin cắt được hộ khẩu vào học ngành Thủy sản ở Nha trang. Chuyện nuôi trồng chế biến các loại hải sản thì chắc là không ăn nhập gì đến cái lý lịch “ không rõ ràng “ của An về chuyện hai hoa mai vừa nở trên ve áo ông Thạch thì đã sớm héo tàn từ năm xưa rồi! Cá- tôm, mực, cua, v v v đâu có biết gì. dính líu gì đến ý thức, quan điểm, lập trường nhỉ? Chúng chỉ là những con vật dùng để phục vụ cho cái miệng thôi mà. Về quê, An xin làm cho trại nuôi trồng thủy sản của huyện. Lương tuy rất thấp, nhưng cũng đủ nuôi cái miệng qua ngày…
Đám con ông Phúc - nhà kế bên, cũng ì ạch chuyện lý lịch tư sản, đã liều mạng lần lượt vượt biển hết rồi. Ở trại về, gánh nặng gia đình của người vợ đã mất từ sau ngày ông lên trại 2 năm, khiến ông vừa trả hết nợ này, lại đến trả nợ khác. Lo cho hai đứa con nhỏ ăn đi học cũng đã mệt nhoài rồi, lấy “ cây “ đâu mà giao cho bọn chủ tàu như ông Phúc chủ hiệu vàng Thành Tín một thời lộng lẫy? Phận nghèo, thời nào, cũng phải nhận sự khổ!
Người chị của An chẳng may “ lọt “ vào cái thời của ý đồ quay trở lại thời kỳ cải cách năm 56 theo kiểu Tàu, nên đã sớm biết phận lo tìm cho mình một cái nghề để kiếm ăn cho dầu ba năm liền cấp ba, đều là học sinh giỏi. Đạt học sinh giỏi văn cấp tỉnh. Không bước vào được ngưỡng cửa đại học, cô con gái ông không ngớt phiền trách cha từ nhiều năm sau đó. Mỗi lần nghe con hậm hực than trách, ông liền bỏ đi chơi đâu đó cả buổi không thiết làm gì nữa! Ông biết nói gì với con về cái quá khứ dài dặt và bất hạnh mà ông ( và bạn bè ông ) đã phải trải qua? Tuổi trẻ chỉ biết oán trách cái trước mắt. Chưa hề biết chia sẻ cái sau lưng. Nghĩ mà buồn…
Còn ông Cổn – từ miền Bắc hối hả xin về quê, không có chức danh gì mang theo ngoài quá trình 15 năm lao dộng giỏi ở công trường cũng vì cái “ gốc “ địa chủ đã khai từ thời còn đi học – nên mâm cổ ở huyện và thị trấn không có chỗ nào dành cho ông cả, ngoài chân thủ kho hợp tác xã mua bán nhờ mấy năm sau cùng trước ngày 30 tháng 4 bị đau bệnh nên điều về sở thương nghiệp Hà Tây làm thủ kho ở dó. Về đến quê – ông biết dược chính xác người vợ cũ đã chết trong dịp tết Mậu Thân khi theo đoàn biểu tình lên phố. Đứa con trai duy nhất của ông lúc xuống tàu còn nằm im trong bụng mẹ, đã đi lính thủy quân lục chiến, rồi lưu lạc vào nam cưới vợ, lập nghiệp - cũng không tìm ra tông tích. Ông trở về. Gọn gàng với cái ba lô, chiếc xe đạp Phượng Hoàng, và mấy chục đồng tiền tiết kiệm. Nhưng viễn cảnh cuộc sống thì đang bề bộn ngổn ngang…
Tình cờ gặp lại ông Thạch sau hơn 21 năm ở giữa đường phố – ông Cổn không nhận ra, nếu ông Thạch không quá vui mừng dạn dĩ lên tiếng hỏi trước. Từ ngày ấy – cả hai đã coi nhau như hai anh em giống thuở còn đi học chung lớp 7 ở trường Hòa Bình. Sau ngày người cha bị “ đấu tố “, ông Cổn cũng hết đường đến trường. Gia đình ông Thạch, tuy bị xếp loại “ tiểu tư sản “ nhưng sau đó – xin chỉnh sửa lại là “ tiểu thương” nên học hết năm lớp 8 mới nghỉ hẳn khi mẹ ông chết đi vì bệnh lao. Họ thường lui tới thăm nhau bên tách trà ly rượu, khề khà trò chuyện mà không chút dấu diếm, sợ hãi.
Người vợ sau của ông Cồn ở Hà Tây nhất định không vào nam với ông khi biết rõ “ chức vụ “ thủ kho của ông, và hiện dang tạm trú trong một góc nhà kho chật hẹp. Hơn 20 năm phấn đấu, nhưng bản tính lờ đờ, chất phát – lại vướng vào cái “ gốc “ địa chủ từ thời ông cố - ông Cổn cũng không có được tấm thẻ đỏ như bao người ở Bắc về…Không có bằng cấp gì, không có thẻ đỏ, lại chẳng có người “ đõ đầu “ nữa – nên ông Cổn như bóng cây khô trơ trụi ở quê. Ông thường nói với ông Thạch.: “ Mình giữ được chân thủ kho là may mắn lắm rồi còn gì? Mình phải lo giữ, dể cho thiên hạ ăn mà… “. Về lại quê sau 21 năm - ông Cổn không có chút tài sản riêng nào khác như lúc ra đi năm 54. Ra đi với chiếc ba lô, trở về cũng với chiếc ba lô – nhẹ tênh…



Biết được ý định của ông Cổn sẽ ở lại chơi qua đêm, ông Thạch rất vui – vội xuống bếp loay hoay nấu mì sợi với trứng gà ( trứng gà của người bạn bên cạnh có thể lấy dùng rồi trả tiền sau cũng không sao). Hai tô mì sợi to súc hai quả trứng được ông Thạch dọn ra trên chiếc bàn nhỏ kê giữa sân cho thoáng mát, thay thế bữa cơm chiều muộn màng.
Ông Cổn nhìn tô mì bốc khói – cười thoải mái: “ Trời khiến tụi mình càng lớn, ăn uống càng ít lại – chứ nếu ăn như thời trai trẻ, thì có nước…ngủ đói! Tôi đã bao năm ngủ đói rồi…”
- Anh cứ việc ăn no – Ông Thạch liếc nhìn bạn – sâm thì không có, chứ còn mì sợi thì nhiều lắm đấy!
- Anh khỏi lo – ông Cổn vừa múc muỗng mì lên – tôi có mang theo mấy gói mì tôm tiêu chuẩn nữa đây mà! – đêm nay đói lúc nào, mình ăn lúc dó…Hà hà, vậy là nhất xứ nẫu rồi còn ai hơn?
Dường như bao giờ ông Cổn đến thăm ( hay gặp nhau ở đâu đó ) cũng mở đầu bằng một hay hai bài thơ có sẵn trong túi áo đọc cho ông Thạch nghe. Ông Cổn đâm ra có “ tật “ làm thơ, mê thơ từ ngày được về lại quê nhà. Hình như ở vào tuổi xế chiều, và sự cô độc – dễ làm cho người ta gần gũi, gắn bó với “ nàng thơ “ hơn? Gặp nhau chỗ vắng, nghe ông đọc thơ còn được. Giữa phố đông người – lại mang thơ ra đọc, thiên hạ dòm ngó với đôi mắt lạ lùng, đôi lúc khiến ông Thạch rất bỡ ngỡ mà không dám nói. Đêm nay – ông đem theo cả quyển vở 100 trang ghi chép đầy thơ trao cho ông Thạch : “ Trong đây là tâm tình của tôi suốt bao nhiêu năm dã dược ghi lại, anh đọc thử thế nào? “. Ông Thạch cầm tập thơ, lật vào trong vài tờ - lặng lẽ đọc…
Ông Cổn vừa ăn, vừa phân trần:
- Anh đọc rồi góp ý thử xem thơ tôi có …ra thơ không nhé?
- Thơ là nỗi lòng, là chuyện riêng của anh – tôi làm sao biết hết mà góp ý đây? – Ông Thạch dè dặt.
- Tôi biết anh lúc còn đi học đã làm thơ hay, nổi tiếng cả trường, hai mươi mốt năm vẫn làm thơ – sao lại từ chối khéo vậy?
- Tôi chưa hề nghĩ mình là “ nhà thơ”, mà chỉ làm thơ cho mình…Còn ai “ gán cho “ danh từ gì, tùy họ thôi mà!
Ông Cổn đặt muỗng và đũa xuống chiếc khay nhỏ - ngẩng lên, đọc thuộc lòng một bài thơ trong tập :
“ Ngày đi có vợ, có con…
Ngày về vợ đã chẳng còn bên ta?
Con thì phiêu bạt phương xa,
Đời ta còn lại bóng tà cuối thôn !
Nhớ thương da diết mỏi mòn,
Tìm đâu ngày cũ? Nước non dặm dài..”
- Buồn ! Ông Thạch buông thỏng..
- Hỏi anh, đời tôi còn lại gì để vui nữa mà không buồn?
- Chứ đời tôi có hơn gì anh đâu?
- Nhưng anh đáng sống hơn tôi…
Ông Thạch không cải lại – cắm cúi ăn. Ông nghĩ, sự im lặng lúc này là nỗi chia sẻ chân tình và lớn nhất dành cho bạn. Hai tô mì đã hết. Ông Cổn tự lo dọn bàn, còn ông Thạch vào nhà trong mang ra khay trà và gói Basto đỏ còn nguyên.
Đêm đang lan dần ngoài ngỏ vắng. Bóng tối làm cho không gian im vắng đến lạ lùng. Sự vắng lặng lạnh lẽo cuối thu nơi góc vườn nhà thôn dã có lúc tưởng như trên mặt đất này chỉ trơ trụi hai bóng người còn thức - ngồi bên nhau. Gió thu dìu dặt. Nhẹ. và se lạnh. Đêm dần vào khuy. Đất trời mỏng manh, mờ mịt…
Hai người vô tình cùng nâng tách trà lên một lượt – nhin nhau, uống từng ngụm nhỏ. Ông Cổn chợt nói : “ Anh lật vào bài “ Nhớ Em Ngày Ấy “ xem đi! “
Ông Thạch chìu ý bạn – lật tìm bài thơ. Cất giọng đọc lớn :
“ Em đến đời anh như bóng trăng,
Giữa đêm trừ tịch – buốt lòng anh..
Ánh trăng soi sáng đời anh mãi.
Một thoáng nhưng sao đẹp vĩnh hằng?

Anh tưởng đời anh đã bò đi,
Ngờ đâu em đến – tuổi xuân thì…
Duyên trao phận gởi, không hề tiéc
Che chở đời anh – buổi hàn vi! “
Ông Cổn uống cạn tách trà, châm nước thêm cho mình và ông Thạch – giọng sang sảng; “ Anh nhớ ngày đó gia dình tôi bị cả xóm lánh xa, như lánh xa một nguồn bệnh nguy hiểm, nhưng cô ấy đã tự nhiên đến với tôi – chẳng hề để ý gì đến mọi lời đàm tiếu, kết án của đoàn thể – tự nguyên yêu thương, và sẵn lòng về làm vợ tôi bất cứ lúc nào…thì đúng là “ ánh trăng “ mầu nhiệm rồi – còn gì? “
- Vậy là đời anh cũng đã có một “ ánh trăng”, một mối tình quá đẹp rồi! – Ông Thạch hít một hơi thuốc, thả khói – một đời, đôi khi có dược một gặp gỡ tuyệt vời như vậy, cũng đủ rồi – anh à!
- Nhờ vậy tôi mới sống nổi ở ngoài đó hơn 18 năm lao động ngoài công trường quần quật đêm ngày để chờ đợi mỏi mòn ngày về được chứ anh?
- Còn cô ở Hà Tây thì sao?
- Năm 73 – tôi bị bệnh nặng nên được chuyễn về điều trị ở bệnh viện Hà Tây. Cô ấy là điều dưỡng…Cũng tình cờ gặp nhau rồi chung sống được mấy năm thôi!
- Có con cái gì không?
- Cô ấy đã lớn, khó có con – chỉ “ nương tựa “ nhau mà sống cho hết đời thôi…Ngặt nỗi, cô ta cũng rất xinh – nhưng thuộc thành phần tiểu tư sản nên chẳng có cán bộ cốt cán nào dám mó đến cả!
- Vậy mới còn lại cho anh chứ? – Ông Thạch chợt cười, anh đã được… nhà nước “ chiếu cố “ lắm rồi, còn gì?
- Đôi lúc quá buồn, tôi cũng nghĩ như anh!
Hai bóng người ngồi bên nhau lặng lẽ.
Những tách trà đã cạn. Rồi đầy. Bao lần. Sự im lặng trôi qua - theo dòng, như đã chảy qua đời nhau hơn 21 năm gập ghềnh thác lũ. Họ đã còn lại, như những nhánh cây khô trôi dạt vào hốc đá – chỉ chờ ngày rã mục.
Tiếng ông Cổn chợt vang lên: “À! mà anh cưới vợ vào năm nào? “.
- Năm sáu bảy!
- Muộn vậy?
- Tôi nhỏ thua anh 4 tuổi mà! Cũng lao đao lắm phen …rồi mới nhảy vào trường võ bị Đà lạc…
- Vợ của nhà thơ mà hào hoa như anh chắc là phải đẹp ?
- Không đẹp lắm đâu – Ông Thạch ngập ngừng – nhưng cũng là “ cái duyên “ tình cờ đến với đời mình…Còn duyên thì ở, hết duyên thì đi – vậy thôi!
- Tôi cũng tin vậy – ông Cổn đặt tách trà xuống – chẳng hạn như cuộc đời tôi…
Đêm lặng lẽ trôi . Mặt trăng thu 21 chênh chếch lơ lửng góc trời phía đông trông lạnh lẽo. Tiếng gà bâng quơ chợt gáy đơn độc từ góc vườn nhà người bạn như tiếng thở dài. Tắt lịm.
- À! Tiếng ông Cổn bổng thốt lên – anh còn nhớ thằng Can-lùn làm lớp trưởng năm tụi mình học lớp 6 không? “
- Nhớ! Can “ cốt cán “ mê con gái bà chủ nhà đó chứ gì?
- Đúng rồi!
- Mà sao?
- Ra ngoài đó, gốc gác bần cố, được đi học – làm lớn lắm, có lần giáp mặt mình ở Hà nội mà nó làm lơ – đã chết rồi…
- Chết ở đâu?
- Ngoài Bắc…
Ông Thạch xé bao thuốc ra, còn lại 2 diếu – chia cho ông Cổn một diếu – nhếch cười : “ Ngày xưa, có người thắp đuốc chơi đêm, vì nghĩ đời quá ngắn cũng phải. Cuộc đời ngắn ngủi thật. Hai mươi năm, rồi gần hai mươi lăm năm – nghoảnh lại, có là gì đâu? “
- Không biết anh nghĩ thế nào, chứ tôi đêm nằm một mình nhớ lại – đúng là một giấc mộng anh à!
- Vậy mà có lắm kẻ không bao giờ nghĩ được như vậy…
- Họ là đám người đang say mà anh? Đã sỉn rồi, thì còn biết trời trăng gì nữa đâu?
- Một cơn say dài dặt cả đời - Ông thờ dài.
Đêm sâu hút. Sương lạnh. Gió thu dạt dào, se thắt hơn.
- Anh còn nhớ cô Thảo-tây-lai không?
- Biệt danh ấy làm khổ cô ta một thòi rồi – anh nhắc lại làm gì?
- Ai cũng biết Thảo đẹp, có gương mặt thanh tú , mũi, mắt giống Phương tây – và làn da luôn trắng hồng, nhưng đâu phải là Tây-lai anh?
- Đành vậy! – Thạch cười mơ hồ - anh có biết là lúc ra đi Thảo đã ở lại nhà tôi, khóc ròng một ngày không?
- Có vậy sao?
- Nói giỡn với anh làm gì?
- Vậy là anh hạnh phúc quá rôi!
- Nàng đi biệt ngay ngày hôm sau – năm 80 có về thăm quê…
- Có thăm anh không?
- Dĩ nhiên là có!
- Rồi sao?
- Nhìn nhau một lát, rồi…đường ai nấy đi thôi!
- Chông Thảo là Thứ Trưởng đó , ông à!
- Tôi biết – Thạch cười bâng quơ – Thảo có nói…
- Sau khi được đi du học ở Nga về, Thảo làm ở Bộ Văn Hóa Thông Tin – và là…vợ ông thứ trưởng!
- Đó cũng là một giấc mộng …
Ông Cồn búng mẫu tàn thuôc bay lên cao – vệt sáng vạch một đường cong phiền muộn…
- Anh vào trong ngã lưng một lát đi, khuya quá rồi! – Ông Thạch nói.
- Còn anh?
- Tôi ngồi đợi sáng…

MANG VIÊN LONG

Thứ Tư, 7 tháng 9, 2011

NHÂN KỶ NIỆM 5 NĂM NGÀY MẤT CỦA NHÀ BÁO LÊ NGỘ CHÂU - SÁNG LẬP & CHỦ BÚT TC BÁCH KHOA



NHÂN KỶ NIỆM 5 NĂM NGÀY MẤT

NGƯỜI SÁNG LẬP & CHỦ BÚT TẠP CHÍ BÁCH KHOA




Nhà Báo LÊ NGỘ CHÂU
( th 9 -2006 – th 9 -2011 )


Tạp Bút
MANG VIÊN LONG




Nhà báo Lê Ngộ Châu – người sáng lập, chủ nhiệm & chủ bút tạp chí Bách Khoa đã vĩnh viễn ròi xa tòa soạn báo BK, gia quyến, văn hữu bao năm gắn bó , đã thanh thản ra đi vào lúc 11 giò sáng ngày chủ nhật 24 tháng 9 năm 2006 – tại nhà riêng ( tòa soạn báo BK) số 160 – đường Nguyễn Đình Chiểu ( trước đây là Phan Đình Phùng ) – quận 3 Saigon, trong sự thương tiếc của tất cả …
Tạp chí Bách Khoa là một trong vài tờ tạp chí nghiên cứu & sáng tác văn học uy tín nhất ở Saigon đã thực hiện liên tục 426 số báo trong hơn 15 năn hoạt động. Những nhà nghiên cứu – phê bình, nhà văn, nhà thơ đã cọng tác thường xuyên trên BK như Tràn Tuấn Khải, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Nguyễn Ngu í, Bùi Giáng, Đông Hồ, Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu, Hoàng Xuân Hãn, Thạch Trung Giả, Nguyễn Văn Xuân, Võ Hồng, Võ Phiến. Quách Tấn, Trần Văn Khê, Vũ Hạnh, Vương Hồng Sển, Cung Giũ Nguyên, Thế Phong (…) đã khẳng định giá trị bền vững cho BK trong lòng bạn đọc.
Bên cạnh những nhà nghiên cứu, nhà văn – nhà thơ đã thành danh; công đầu của BK là đã phát hiện, nuôi dưỡng, tạo điều kiện cho nhiều cây bút trẻ tài năng kế tục con dường phục vụ văn học mà BK đã chọn, đã bao tháng năm âm thầm miệt mài làm việc – để BK ngày càng phong phú, giá trị hơn cùng năm tháng phát triển…Đó là những cây bút trẻ tài năng đã tiến bước dài lấu trên văn đàn Miền Nam như : Nhật Tiến, Lê Tất Điều, Y Uyên, Trần Huiền Ân, Trần Hoài Thư,, Túy Hồng, Nguyễn thị Thụy Vũ, PhạmThiênThư, Mường Mán, Mang Viên Long, Nguyễn Thị Hoàng, Luân Hoán, Cung Tích Biền, Thành Tôn, Hoàng Lộc, Phan Nhự Thức, Nguyễn Nho Nhượn, Cao Thoại Châu, Nguyễn Mộng Giác, Lâm Chương, Đỗ Nghê, Từ Thế Mộng, Ngụy Ngữ, Hà Nguyên Dũng, Phạm Cao Hoàng, Lê Văn Trung, Nguyễn Nho Sa Mạc (…)
Tôi chỉ được cọng tác với tạp chí BK kể từ năm 71 – cùng lúc, viết thường xuyên cho tạp chí Vấn Đề ( chủ trương & chủ bút : GS-nhà văn Vũ Khắc Khoan & nhà văn Mai Thảo ). cọng tác với tạp chí Văn, Trình Bầy, Phổ Thông, Khởi Hành, Khai Phá, Hiện Diện, Tuổi Ngọc…
Tôi viết gởi cho BK rất ít - bài thơ đầu tiên của tôi đăng trên tạp chí BK có tựa đề “ Thơ Cho Con Đầu Lòng”- một bài thơ mới, khi nghe tin đúa con gái đầu lòng vừa được sinh ra ở quê nhà đang bị đe dọa bởi cuộc chiến ngày càng sôi sục thù hận. Năm sau, BK đã chọn đăng bài thơ “ Những Dãy Hành Lang Buồn Bã “ ( một bài thơ tự do ) – được viết khi tôi dang nằm điều trị ở Bv Quân Y Nha Trang – lúc này thì chiến tranh đã vô cùng ác liệt trên các mặt trận – và thương bệnh binh khắp vùng 2 CT được đưa về QYV khá đông.
Tôi không còn nhớ rõ số BK nào đã đăng bài thơ ấy – nhưng, “ sự cố “ về bài thơ “ xấu số “ này thì tôi nhớ rất rõ: Tôi ra phố Nha trang tìm mua báo BK theo định kỳ, đọc ở mục lục thấy có giới thiệu tựa đề bài thơ NDHLBB cùng số trang hẳn hoi – nhưng khi lật vào trong, thì chẳng thấy bài thơ đâu ! ?( bài thơ dài 2 trang/ 1 tờ báo_). Đọc trang cuối, cũng không thấy có lời “ xin lỗi & cáo lỗi “ gì của tòa soạn cả?
Sau dó mấy hôm, tôi có dịp vào Saigon, dĩ nhiên là tôi phải đến thăm tòa soạn BK – tìm ngươi “ chủ nhiệm & chủ bút “ Lê Ngộ Châu – dể “ thăm hỏi “ cho rõ.
Như mọi lần, ông thân tình tiếp tôi ở ngay bàn làm việc riêng của ông trên gác. Gặp nhau, tay bắt – mặt mừng, tôi chưa vội hỏi ông điều gì, ông đã sốt sắng giải thích bằng giọng ân cần , hối tiếc : “ Chúng tôi đã phải trễ ngày phát hành mất một tuần vì vài thơ của anh - nhờ nhiều người can thiệp, kể cả anh Võ Phiến - nhưng cuối cùng, để tránh bị lỗ - đành phải cắt bỏ trang thơ anh đi ! “- Tôi không hề có ý nghĩ trách cứ BK, mà chỉ nghĩ đến sự làm việc vô tư, cẩn trọng của Ông Lê Ngộ Châu ( cùng BBT/ BK ) đã luôn chọn dọc rất kỹ mọi bài vở anh em gởi về tòa soạn, đã có một chủ trương rất rõ ràng; luôn đứng về phía chân lý – giá trị văn học, mà không mấy “ nể sợ “ đến chiếc kéo của sở PHNT để cho tờ báo luôn giữ vững tôn chỉ phục vụ văn học, có giá trị bền lâu với thời gian; không phụ lòng ngưởi viết và bạn đọc…
Nghĩ chỉ vì bài thơ cỏn con của mình mà đã làm cho BK phải khổ, lận đận - nên tôi rất cảm thông với anh, và vô cùng trân quý tình cảm văn chương vô tư mà anh đã dành cho –Tôi nhận ra ở anh một sự hy sinh thầm lặng, một tấm lòng tận tụy vì sự nghiệp văn học ở BK trong bao năm qua…Sự “ phối hợp nghệ thuật “ của Bộ Văn hóa thông tin đã hạn chế biết bao tác phẩm, biết bao tấm lòng tha thiết với văn học, với Quê Hương…Bài thơ tôi viết về “ Những Dãy Hành Lang Buồn Bã “ ở QYV Nha trang là một thái độ phản kháng cuộc tương tàn, thù hận, và kêu gọi hòa bình, an lành cho tất cả ! Nhưng “ nó “ đã bị cắt bỏ! Viết mà không có Tự Do – thì tác phẩm chỉ còn là những xấp giấy vụn mà thôi!?
Tạp chí BK số 384, phát hành tháng 11 năm 1973 – đăng truyện ngắn “ Dì Lucia “ của tôi khi tôi còn măc tạm chiếc áo lính chứng tỏ – một lần nữa, BK không hề quan tâm đến sự “ gian khó ” sẽ đến cho tờ báo, mà luôn tôn trọng & yêu chuộng Sự Thật… ( Sau 75, nhà thơ Cao Thoại Châu khi đọc lại truyện ngắn này đã có câu hỏi : “ Giá như lúc ấy –năm 73, BK không đọc kỹ & chọn đăng “ Dì Lucia “ thì có lẽ, đã “ đánh mất “ một truyện ngắn hay của anh rồi phài không…?” Tôi đã đồng ý với anh ngay, bởi – thời điểm ấy – bài vở toàn sử dụng viết tay ( hay máy chữ)- một bản duy nhất ( vì sự bấp bênh của cuộc sống & điều kiện giới hạn)- thì “ Dì Lucia “ đã…bay về Trời từ lâu lắm rồi rồi! ) .
Năm 1988 – tôi lang bạt vào Saigon. Một buổi sáng cởi xe đạp tành tành đi ngao du phố phường Saigon cho đỡ buồn – tôi ghé lại nhà số 160 Phan Đình Phùng - tòa soạn BK ngày nào, để tìm chút “ dư hương” giữa Saigon giá lạnh. Cửa khép hờ. Tôi mạnh dạn mở lớn, bước vào - người tôi gặp đầu tiên là bà Lê Ngộ Châu. Với dáng vẻ thanh nhã, trí thức, lịch lãm mà giản dị – bà e dè hỏi : “ Xin lỗi, anh cần chuyện gì? “. Tôi nhìn thấy trong ánh mắt lo lắng của bà đã dần trở lại bình thường khi nhìn kỹ lại người tôi: Một gã quê mùa, xuềnh xoàng, chân chất - không phải là dân lừa đảo? Tôi cười thân tình; “ Thưa chị! Trước 75 tôi dạy học ở Tuy Hòa – sau này về lại quê nhà ở Bình Định . Lâu quá mới có “ dịp may” ( thật ra là tôi bỏ nhà lang thang ) vào Saigon, nên muốn đến thăm hỏi sức khỏe anh Châu một lát thôi… “. Bà lại nhìn tôi – mỉm cười : “ Xin anh cho biết quý danh? “. – “ Bà cứ nói lại giúp, có Mang Viên Long muốn thăm…”.
Bà Châu quay đi – lên gác, một thoáng, đã bước xuống, vừa đi vừa nói : “ Anh Châu mời anh lên chơi…”. Tôi bước lên phòng làm việc của anh ngày nào – căn phòng hơi chật, ánh diện sáng choang - rất ngạc nhiên, thấy anh vẫn ngồi ở chiếc ghế dựa bên cạnh chiếc bàn có nhiều sách báo, giấy tờ đang bày ra…Trông anh vẫn hồng hảo, mạnh khỏe – nhất là cũng với dáng vẻ điềm tĩnh mà gần gũi thân mật – anh đứng dậy bắt mạnh tay tôi : “ Mời anh ngồi chơi! “ - Anh rót trà ra tách : “ Mời anh…”.
Tôi hơi dài dòng về chuyến đi Saigon với anh một chút như lời tâm sự - anh hỏi : “ Còn quý anh em ở Tuy hòa thế nào, anh? “ – Tôi cười buồn : “ Vẫn vậy vậy thôi…”. Anh kể cho tôi nghe vài chuyên vừa xảy ra với BK, với thân hữu thân quen ở Saigon – nhất là với bản thân anh đã đôi phen “ được “ mời …
Lần sau, lại lang bang vào Saigon. Sau khi ghé thăm gia đình nhà văn Y Uyên ở Gò Vấp - tôi ghé thăm nhà văn nữ Minh Quân. Chị cũng là một thân hữu của anh em văn nghệ Tuy hòa thuở trước - Chị rủ tôi đi chơi lòng vòng Saigon. Đang buồn ( và thất nghiệp ) tôi chở chị trên chiếc xe đạp Mini mới của chị tà tà đến các công viên. Gần trưa, lại đi ngang qua đường Phan Đình Phùng. Tôi chợt nhớ anh Lê Ngộ Châu – đề nghị chị cùng vào thăm anh lần nữa dầu biết rằng, sự có mặt nhiều ở nhà anh là không thuận tiện cho anh lắm! Chị cười cười : “ Bạn của em, em vào thăm đi! Chị đâu có quen thân với ông ấy – chị ngại lám…? “. Thế là tôi lại vào thăm anh một mình - một lần nữa. Sau vài câu thăm hỏi tình trạng gia đình, công việc của tôi – ngẫm nghĩ giây lâu, anh nói : “ Không biết có còn gì nũa cho anh em mình? “.
Thế rồi bận bịu với cơm áo và nỗi bất hạnh riêng – tôi không có dịp “ thư thả “ để vào Saigon lâu ngày mà tà tà đây đó như trước.
Ngày anh ra đi vĩnh viễn tôi không thể vào Saigon để lần cuối được thăm & tiễn anh, mà chỉ đọc lại các bài ghi nhận trên mấy trang Website thân hữu và tin tức chuyền đi tù bạn văn Một mình đau xót cảm nhận thêm một sự mất mát lớn trong đời. Cuộc vô thường của trời đất… Hôm nay – gần dến ngày giỗ thứ 5 của Anh, nơi chốn quê nhà quạnh hiu này – tôi lại nhớ anh : “ Một nhà báo chân chính, tài năng , và vô cùng độ lượng đã suốt đời hy sinh cho sự nghiệp văn học…!” . Xin được thắp cho anh một nén hương muộn nhưng rất chí tình…

Quê Nhà, tháng 9 -2011.
MANG VIÊN LONG

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

ĐIỀU MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU Truyện Ngắn MANG VIÊN LONG



ĐIỀU MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU

Truyện Ngắn
Mang Viên Long



Nghiễm tình cờ gặp nàng trên chuyến tàu từ Saigon về Nha Trang khi nàng và cô em gái cùng vào chung một toa giường nằm số 16 với anh. Vì vội, anh đã chấp nhận lấy vé của táu SQN 2, bởi nếu chờ SE2 thì phải mất thêm ba ngày nữa! Nghiễm nghe nói tàu SQN2 là loại tàu “ xe cải tiến “, không có một chút ưu tiên nào trên đường ray, dừng nghỉ nhiều trạm, và phải nằm chờ cho các loại tàu SE chạy qua. Dù biết vậy, nhưng phải nằm lại Saigon thêm ba ngày, cũng thật là nóng ruột. Chẳng thà nằm yên trên tàu còn hơn sáng chiều cứ bị rủ rê níu kéo lai rai hoài nơi các quán nhậu của mấy người bạn học cũ trong lúc lòng dạ đang hầm hập nóng như lửa ! Công việc ở xưởng vẻ Nghiễm phải tạm gác lại hơn tuần lễ nay rồi, kéo dài thêm ba ngày, thật không an lòng chút nào. Ngày khai trương cuộc triển lãm chung với hai người bạn gần kề, mà Nghiễm phải có số tranh tương đối nhiều hơn hai bạn ở phuong xa; ba phát thảo đã thành hình từ hai tháng trước, nhưng chưa được đưa lên giá vẽ!
Bảy giờ ba mươi tối tàu rời ga Hòa Hưng, Nghiễm lên giường nằm tầng dưới – định ngủ một giấc. Hai chị em nàng nằm hai giường đối diện, anh hơi ngạc nhiên vì không hề nghe tiếng nói cười của hai chị em, dầu khi mới vào chung toa, Nghiễm nhận ra nét tươi trẻ của cô chị phảng phất chút gì như nghiêm nghị, hờ hững. Nghiễm nhắm mắt một lát, cố dỗ giấc ngủ vì sau gần tuần lễ anh chưa được ngủ trọn một đêm nào sau những cuộc rượu tới bến chung vui với bạn bè. Saigon - nơi của những quán café, quán trà nhộn nhịp – và, dĩ nhiên là quán nhậu – triền miên đêm ngày, đã làm cho anh quay vòng…
Tàu chạy chưa được bao lâu thì ngừng. Không còn nghe tiếng rầm rập lay lắt của con tàu để ru ngủ, Nghiễm chợt mở mắt nhìn lên tấm kính cửa sổ, không nhận ra nơi ngừng là ga nào. Phía giường bên, cô em gái cũng ngồi nhổm dậy - hỏi : “ Sao vậy anh? Có chuyện gì vậy, anh? “.
- Anh cũng …như em thôi mà! – Nghiễm gắng cười thân tình, đi tàu loại “ xe cải tiến “ này em dừng nên thắc mắc…
- Sao có loại “ tàu xe cải tiến “ - lạ vậy nhỉ ?
- Đâu có gì lạ, em! – Nghiễm chợt cười lớn – là loại tàu chạy …như xe cải tiến, hay như rùa vậy mà!
Nghiễm bổng thèm đốt một điếu thuốc. Anh ngồi hẳn dậy – bước xuống giường, kéo mở cánh cửa toa - bước ra ngoài hành lang. Cô em gái cũng bước ra khỏi phòng, đứng nhìn ra một vùng sáng chập chờn ánh diện phía ngoài cửa kính. Hút xong điếu thuốc, Nghiễm quay về phòng thì gặp cô em gái còn đứng ở hành lang, ngơ ngác nhìn ra ngoài khung cửa. Anh dừng lại – vỗ tay lên vai cô bé : “ Em đi về đâu? “
- Dạ, Nha trang…
- Anh cũng xuống ga Nha trang đây!
- Nhả anh ở đường nào?
- Góc đường Lê Thánh Tôn – Nghiễm thân tình đáp – còn em ?
- Em về Trần Quí Cáp..
- Chị của em cùng đi phải không?
- Dạ!
- Hai chị em vào Saigon thăm chơi hay có việc gì vậy ?
- Đi chữa bệnh cho chị…
- Chị em đang bị bệnh sao? – Nghiễm ngạc nhiên, anh thấy người vẫn khỏe mạnh cơ mà?
- Anh à! – cô bé ngập ngừng – chị em bị bệnh câm …
- Từ lúc nào vậy, em?
- Giữa năm lớp mười…
- Tự nhiên vậy sao?
Nghiễm thật sự cảm thấy tội nghiệp cô gái có khuôn mặt tươi trẻ phúc hậu thánh thiện đang nằm lặng lẽ phía trong phòng. Mới gặp lần đầu khi vào chung phòng, Nghiễm cũng đã nhận ra nét hờ hững, lạnh lùng rất khác lạ. Vừa trang nghiêm, cũng vừa mời gọi. Trên nét mặt thản nhiên ấy, ngời sáng một tâm hồn sâu lắng thật quyến rủ.
- Sao ba má em không đưa chị đi, em nhỏ vậy làm sao mà biết đường biết cách? Giọng Nghiễm ôn tồn – cởi mở như một người thân.
- Ba em mất năm chị em bị bênh câm – còn mẹ em phải lo bán buôn ở chợ - tiếng cô bé nhỏ dần – Em vào nhà bà dì ở đường Sư Vạn hạnh, quận 10 nhờ dì lo giúp mà…
- Vậy bác sĩ đã chữa bệnh ra sao rồi?
- Họ chỉ khám, hội chẩn đề nghị giải phẩu, nhưng dì em không chịu!
- Sao dì không chịu, em?
- Các bác sĩ không bảo đảm sau phẩu thuật chị em sẽ nói dược, anh à…
- Chữa bệnh mà không bảo đảm, mò đoán – thì …
Tàu bắt đầu rục rịch chuyễn bánh, cô bé cũng bắt đầu kể về người chị thân yêu của mình: “… Năm chị học lớp 10 , buổi sáng - dù trời đang mù sương, se lạnh, và có mưa lất phất của cơn bão từ đã được thông báo - nhưng ba em vẫn đi bộ tập thể dục về như mọi hôm. Sau khi tắm xong, ba ra giếng trong sân nhà giặt áo quần lót. thì bị ngã ngay ở giếng. Mẹ em trông thấy chạy sang nhà bên nhờ người ẵm đưa ba vào nhà. Thấy ba em đang bắt đầu sùi bọt mép, mặt mày tái xanh, mắt nhắm nghiền - ngưởi ta lật đật đưa ngay ba lên xe honda chở đến bệnh viện cấp cứu. Sau mấy ngày cho thở oxy, truyền dịch, và cuối cùng đặt máy hô hấp – các bác sĩ phòng cấp cứu nội hội chẩn quyết định mổ não lấy máu bị ứ đọng khi các mạch máu bị vỡ - hai ngày sau, ba em bị co giật từng hồi, rồi bất động…Buổi trưa khi đi học về chị em định vào bệnh viện trực thay mẹ thì chiếc xe cấp cứu của bệnh viện đã chở ba và mẹ về!
Mẹ em thất thểu đi theo sau chiếc băng ca – khóc nức nở. Chị em cũng chạy ùa ra đón ba vào nhà. Sau một ngày một đêm vật vã than khóc thương ba – chị bổng không nói được tiếng nào nữa! Từ ngày ấy – mẹ đã đưa chị Hoài Thương đi chữa bệnh nhiều nơi, nhiều thầy – nhưng vẫn chưa nói được tiếng nào…”
Nghiễm quay lại, thoáng nhìn vào phòng – người con gái có cái tên Hoài Thương thơ mộng đang nằm im lìm, tấm chăn hoa đắp ngang ngực – có lẽ nàng đang tìm quên trong giấc ngủ ? Anh chợt cầm lấy bàn tay của cô bé : “ Nhà em ở số mấy đường Trần Quí Cáp vậy? “ – “ Dạ, số 16/4 ạ! “ – “ Sau này, anh sẽ tìm đến thăm em và chị Hoài Thương nhé? “ – “ Dạ ! “



Rất may là ngày Valentine chỉ cách sau hôm gặp chị em Hoài Thương chỉ mười hôm. Nghiễm ra phố sớm, ghé cừa hàng bán hoa đường Độc Lập. chọn mua bó hoa Hồng thật tươi, thật đẹp. Anh cũng mua thêm hộp socolate, và không quên đem theo tập thơ tình của người bạn ở Menphis vừa gởi tặng để làm quà cho Hoài Thương.
Nghiễm dừng xe trước hiên nhà – số 16/4 , ngập ngừng ở cửa. Cô em gái hôm nào chạy ra, mừng rỡ như đón người thân di xa về : “ Em chào anh ! Mời anh vào chơi…”.
- Có chị Hoài Thương ở nhà không, em?
- Dạ có! Cô bé cười ngượng ngùng – chị đang tắm ạ…
- Được rồi! – Nghiễm thàn nhiên ngồi vào ghế - anh sẽ chờ…
Cô bé đứng tần ngần, nhìn Nghiễm với ánh mắt vừa lạ lẫm vùa thích thú . Nghiễm đốt một điếu thuốc:
- Có mẹ ở nhà không em?
- Mẹ ra chợ lo dọn hàng từ hồi giờ 5 giò ba mươi, anh ạ!
- À, hôm trước nói đủ thứ chuyện mà anh quên hỏi tên em rồi?
- Em tên Hoài Thanh…
- Hoài Thanh – Nghiễm lẩm nhẩm – em đang học lớp mấy?
- Lớp 11…
Hoài Thương từ nhà sau đi ra – nhìn thấy Nghiễm, nàng lùi lại một chút, vuốt lại tóc. Anh đã được nghe Hoài Thanh kể về nàng, tuy không nói dược- nhưng Hoài Thương vẫn còn nghe được, rất chậm, đôi khi không chính xác. Dì đã mua cho bộ khuyếch âm nhỏ, nhưng Hoài Thương không bao giờ chịu đeo vào tai – Nhìn Hoài Thương, anh cười: “ Anh đến thăm em…”. Ánh mắt nàng sáng lên, và nụ cười thay lời cám ơn thật nồng nàn.
Hoài Thương đến ngồi vào chiếc bàn nhỏ dành riêng kê gần bộ ghế salon giữa phòng khách. Trông tươi tắn, tnh khiết như một đóa Hồng trắng còn đẫm hơi sương. Nàng khẻ kéo nhẹ chiếc hộc bàn, lấy ra tập vở học trò dày, một cây bút kim – lặng lẽ viết : “ Anh Nghiễm đến chơi hay có chuyện gì? “
Nghiễm rời chỗ, đến ngồi vào chiếc ghế dựa nhỏ bên cạnh chiếc bàn của Hoài Thương . Anh lấy bút ra, viết nắn nót : “ Hôm nay là ngày Valentine – anh đến thăm, và tặng chút quà cho em đây! “
“ Cám ơn anh Nghiễm! Mà anh tặng cho em món quà gì? “
“ Một bó hoa hồng, hộp socolate và…một tập thơ! “
“ Em cám ơn anh ! Nhưng em không nhận! “
Đọc xong lời đáp của Hoài Thương – thật sự Nghiễm đã sứng sốt giây lâu. Nếu không có ánh mắt thầm nói: “ Em xúc động lắm” – và nụ cười : “ Em xin cám ơn tấm lòng cao quý của anh! “ – thì Nghiễm đã buồn giận biết chừng nào. Anh nhìn thẳng vào đôi mắt đang mở to, sáng và long lanh niềm xúc cảm của Hoài Thương – rồi mỉm cười, viết vào trang giấy : “ Rồi sẽ có ngày em sẽ rất hạnh phúc khi nhận quà của anh, Hoài Thương ạ! “ – nàng viết ngay : “ Em cũng hy vọng và tin tưởng như anh! “. Nghiễm cảm thấy vui hơn khi nghĩ đến lúc đưa Hoài Thương đến dự buổi khai mạc triển lãm vào cuối tuần – sẽ chỉ cho nàng xem bức tranh “ Hoài Thương ” vẽ trên lụa mà anh vừa hoàn tất tuần trước : Một khuôn mặt mờ đi giữa đôi mắt biết nói và đôi môi tươi đỏ thì thầm.
Như một thói quen hay một “ quy định “ không thành văn, không giao ước - sáng chủ nhật nào sau khi đến Văn café cùng bạn bè, Nghiễm chạy xe thẳng đến đầu đường Trần Quý Cáp. Dường như Hoài Thương cũng đang chờ anh mỗi sáng chủ nhật trên chiếc bàn nhỏ với mái tóc còn ươn ướt , bộ áo quần mới mầu xanh da trời mỏng manh ( hay mầu vàng nhạt ) – khi anh vừa bước vào nhà.
- Em đang làm gì nhỉ? – Nghiễm hỏi, chờ đợi.
Lặng đi một phút – Hoài Thương giở tập vở ra : “ Em đang đọc lại những lời của anh tuần trước! “
Ngồi vào chiếc ghế vẫn thường ngồi với nàng – Nghiễm lấy bút từ túi áo khoát – viết dần những gì cần nói với nàng trong suốt một tuần lễ. Nghiễm chú ý thấy, bao giờ sau mỗi lần đọc được lời tâm tình của anh – Hoài Thương cũng nở một nụ cười trong ngần. Đôi mắt long lanh niềm xúc cảm tha thiết còn hơn vạn lời . Chỉ sau gần ba tháng, tập vở dày trăm trang đã hết, phải thay tập vở mới. Chủ nhật tuần trước, nhìn thấy tập vở mới – Nghiễm đã viết ngay trang đầu : “ Cho anh xin tập vở cũ, nhé? “ – “ Em cần nó hơn anh! “…( Hoài Thương có hai tập vở, một dành riêng cho Nghiễm và một chung cho mọi người thân, bạn bè.)
Nghiễm chợt nhìn xuống bàn chân Hoài Thương gác lên thanh ngang chiếc bàn : Đôi tất màu da và một phần ống chân trắng muốt. Nghiễm hơi cúi xuống, đưa tay sờ lên bàn chân nàng. Hoài Thương yên lặng. Anh ve vuốt khẻ khàng bàn chân và phần da thịt phía trên – nhận ra chiếc tất đã rách lòi ngón chân cái nhỏ nhắn. Anh nắm chặt ngón chân cái – giữ yên. Một thoáng, Hoài Thương rút bàn chân, đặt xuống giép.
Nghiễm ngước nhìn đôi mắt nàng lóng lánh : “ Anh làm em ngượng quá! “.
Đôi môi nàng khẻ rung động : “Anh thật tình thương em vậy sao? “
Hai đôi mắt nhìn nhau – sững sờ, im vằng.
Nghiễm mỉm cười : “ Anh muốn hôn lên bàn chân có chiếc tất rách này lắm, Hoài Thương ạ! “



Ngày 24 tháng 9 không nhằm ngày chủ nhật nhưng là ngày sinh nhật của Hoài Thương, Nghiễm quyết định ra phố sớm, để mua cho nàng một món quà – và ghé lại thăm nàng trước giờ đến xưởng vẽ.
Bước vào cửa hàng bán đồ kỷ niệm dọc phố Độc Lập – Nghiễm chợt nhớ đến ngón chân cái ở chiếc tất Hoài Thương bị rách. Anh cảm thấy rất thương đôi bàn chân bé nhỏ - đã sớm bước vào cuộc truân chuyên giữa tuổi đời đang xanh mộng. Rồi một mai đây những bước chân lạc lõng thơ ngây ấy sẽ đi về đâu? Con chim có tìm ra chiếc tổ ấm áp cho đời mình giữa giông bão chăng?
Nghiễm liếc ngó thoáng qua các món đồ bằng ốc, xa cừ, tre đan, gỗ lũa, nhựa , nhôm…bày biện đẹp mắt trong tủ kính – rồi bước ra. Cô nhân viên bán hàng quần áo modern liếc xéo anh với khuôn mặt đông cứng. Nghiễm bước vào cửa hàng bán áo quần.
- Bà có bán tất không? – Nghiễm vừa lơ đãng nhìn vào các ngăn tủ, vừa hỏi.
- Có đây – người đàn bà son phấn diễm lệ cười nói rất điệu nghệ - mở tủ đưa cho Nghiễm mấy đôi tất - loại sịn đấy, cậu à!
- Không – loại tất nữ ấy mà…
- Cậu mua tất nữ?
- Đúng rồi!
Bà đon đả kéo ra một lô các loại tất nữ dài, ngắn – đủ màu, đủ loại chất liệu. Nghiễm chọn một đôi, mở ra xem : “ Bà cho loại tất suông, không có ngón…”. Bà lại mở ngăn kéo tiếp theo – “ Bây giờ phái đẹp vẫn ưa dùng tất có ngón đấy cậu ơi ! “ – trao cho anh hộp tất không ngón, mầu vàng nhạt gần giống mầu da , bằng tơ nylong mịn, hiệu “ Sunlight” của Singapore. Nghiễm rất vui vì đã chọn được mầu tất ưng ý – thích hợp với mầu của Hoài Thương. Anh mua luôn một hộp 12 đôi.
Hoài Thương đang đứng ở cửa nhìn mông ra phố, trông thấy Nghiễm – đôi mắt bổng sáng lên : “ Anh đến chơi ” – đôi môi phân vân thì thấm : “ Sao hôm nay anh lại đến ? “. Nghiễm dựng xe lên thềm , cùng Hoài Thương vào nhà – cả hai đến ngồi vào chỗ của mình như mọi hôm. Trên bàn của Hoài Thương, quyển truyện “ Hội Hè Miên Man “ của Ernest Hemingway đang mở…
“ Anh đến thăm em mà có mang theo vật gì vậy, anh? “
“ Hôm nay là ngày sinh nhật em, tròn hai mươi - anh mang chút qùa tặng em mà! “
Nghiễm đặt nhẹ nhàng chiếc hộp có bao giấy hoa, và thắt dải đăng ten mầu xanh lên bàn, trước mặt nàng. Hoài Thương lặng nhìn – đôi mắt ngỡ ngàng, còn dôi môi sửng sốt. Nghiễm đăm đăm nhìn nàng, lòng bàng hoàng xao động. Trên gương mặt bình thản và dịu dàng kia như đang biến đổi từng giây phút ngập ngừng xen lẫn niềm hạnh phúc trào dâng cao độ.
“ Em cám ơn anh! Nhưng anh mở giúp em đi…”
“ Anh muốn em tự tay mở ra, em yêu! “
“ Em xin phép anh…”
Hoài Thương cầm chiếc hộp nhỏ hình chữ nhật xinh xắn đưa lên tầm mắt: Nàng khẻ khàng mở sợi dây đăng ten có đính chiếc nơ để lên bàn, lấy ngón tay có móng dài tháo từng đường băng keo dán – chiếc hộp đã được trở lại dáng vẻ cũ : Đó là một chiếc hộp bằng gỗ thông có vân mầu đà, được đánh bóng rất kỹ.
Nàng đặt chiếc hộp xuống – ngẩng lên nhìn Nghiễm, ánh mắt rực lên niềm xúc động xao xuyến lạ kỳ. Hoài Thương đặt hai bàn tay lên chiếc hộp giây lâu.
“ Em mở ra xem di - Hoài Thương! “
Nghiễm có cảm giác như nàng đang gắng giữ hơi thở thật đều khi nhìn thấy đôi môi tươi đỏ đang mím lại. Rồi mấp máy, rung lên nhè nhẹ - như muốn thốt lên điều gì đang nghèn nghẹn ở cổ.
Không chờ đợi được nữa, Nghiễm khẻ cầm lấy một bàn tay Hoài Thương – đưa lên môi hôn thật lâu. Anh như muốn hít thật sâu làn hương da thịt nàng như đã bao lần làm vậy mối lúc chia tay vào sáng chủ nhật.
Nàng rút tay lại – mở chiếc hộp ra . Hoài Thương chợt reo lên : “ Anh ơi ! Em cám ơn anh…”. Nghiễm đứng bật dậy – ào đến ôm chặt lấy nàng : “ Em yêu! Anh vô cùng hạnh phúc được nghe em nói…”

Quê nhà
Tháng 8 năm 2011
MANG VIÊN LONG

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2011

PHỐ NÚI, NHỮNG NGÀY MƯA Truyện Ngắn MANG VIÊN LONG



PHỐ NÚI,

NHỮNG NGÀY MƯA…




Truyện Ngắn
MANG VIÊN LONG





Tùng được dịp ghé thăm Phố Núi lần đầu vào mùa hè năm 1963 để thăm người chị kề vừa có chồng, lặn lội theo chồng lên núi. Từ ngày chị có chồng, xa nhà đã hai năm – không có ai lên đó thăm chị cả! Chị ra di, vẫn nghĩ là ra đi biền biệt. Tùng cũng mơ hồ cảm nhận được điều đó khi nhìn chị khóc nức nở, nghẹn ngào. Chị gặp anh – là sự một tình cờ, chưa hề biết mặt nhau lần nào trước đó. Và người anh cả đã coi chuyện gả chị có chồng là đỡ đi một gánh nặng – thì còn muốn đeo bám theo cái gánh nặng ấy làm gì nữa? Chỉ còn có Tùng – người em út, là không bao giờ quên được người chị tình nghĩa mà anh xem như một “ người mẹ nhỏ “ đã thương yêu, chia sẻ, chăm sóc anh từ thuở vừa lên tám tuổi.
Buổi chiều thi xong phần vấn đáp hai môn Anh – Pháp ban C tú tài toàn phần, Tùng biết chắc mình đã đỗ, nên viết thư ngay cho chị để báo tin vui. Một người dưới quê chuyên buôn bán trái cây ở miệt Pleiku - Kontum đã mang phong thư chỉ vỏn vẹn mấy câu của chị đến cho Tùng : “ Chị mừng lắm, em ơi! Gởi em tiền xe, mau lên chơi với chị vài hôm. Em nhé? “. Nét chữ nguệch ngoạc của chị khiến Tùng thương chị vô hạn. Chị đã phải nghỉ học từ năm lớp ba, để cúi xuống bên những công việc của một người đàn bà, hay của một người giúp việc nghèo khó. Dù được thụ hường phần lớn gia sản của cha mẹ để lại – nhưng người anh cả đã không làm được chút gì cho hai em như lời di chúc của cha mẹ để lại cho anh khi ra đi, ngoài nhà cửa và ruộng vườn.
Năm ấy - Phố Núi đang vào mùa mưa. Tùng chỉ được vài lần trùm áo mưa, đạp xe lòng vòng xuống phố, chui vào một quán café dọc đường nào đó – ngồi nhìn mưa giăng ngợp trời, rồi trở về. Phố nhỏ . Nhà cửa rải rác, sơ sài – ngoài mấy dãy phố chính ở trung tâm rap hát Diệp Kính là còn có sinh khí, sinh hoạt rộn ràng đôi chút giữa cảnh núi đồi cao nguyên thầm lặng u trầm mà thôi. Phố mưa buồn. Lòng Tùng cũng ngút buồn như phố. Trước ngày trở về, người anh rể đã mượn được chiếc Gobel chở Tùng vào thăm chơi ở miệt xưởng trà Bầu Cạn – một địa chỉ theo yêu cầu của Tùng. Chính tại nhà máy chế biến trà này người thông dịch là cha anh, đã gặp cô gái miền xuôi lên xin làm việc ở xưởng trà là mẹ anh – họ đã gặp nhau, và thương yêu. Tùng muốn được nhìn lại cái quang cảnh ngày xưa ấy – cho dầu, tất cả đã dần dà đổi thay. Nhưng trước mắt anh, núi vẫn còn. Những cánh rừng bạt ngàn vẫn còn. Nhất là con đường gập ghềnh, lầy lội từ thị xã dẫn vào Bàu Cạn vẫn còn. Như vẫn còn hằn in dấu chân đi về của cha mẹ anh thời vừa tròn hai mươi tuổi.
Ngày từ giã chị trở về xuôi để chuẩn bị thi vào đại học, Tùng chỉ nhớ hai hình ảnh mà cho đến mãi sau này – không bao giờ phai nhạt trong trí nhớ anh: Ngôi nhà tạm bợ của chị như nhỏ sụp xuống trong những cơn mưa đen kịt đêm ngày bên góc đồi vắng, và gương mặt chị bao giờ cũng lạnh lẽo, trơ vơ như những cánh rừng u tối phía sau nhà.
Năm 65, Tùng lại được lên Phố Núi lần 2 : Sau những ngày tưng bừng của tháng 11 năm 63, các năm tiếp đó là những tháng ngày biến động liên tục. Chính trường xao động. Các đảng phái, bè nhóm lại nổi lên khiến Saigon và những thành phố lớn chộn rộn với nhiều tin tức đảo chánh, thay thế, chuyễn đổi quyền lực. Đã có một vài tờ báo dưa tin về những cuộc âm mưu đảo chánh của các nhóm quân nhân và đảng phái bị phá vỡ. Sau cùng, là một vài cuộc biểu tình, xuống đường lẻ tẻ ở Saigon và Huế để ủng hộ hay đả đảo, đã làm cho không khí càng thêm ngột ngạt. Tùng và 3 người bạn cùng khóa ở trường sư phạm Qui Nhơn đang lẩn quẩn trong cái thị xã như vừa được hâm nóng vì những tin đồn, khi trường bị tạm thời cho sinh viên nghỉ học, thì Tâm từ Pleiku bất ngờ ào xuống Qui Nhơn thăm Yến. Yến là bạn gái của Nguyên và Quế ở văn khoa Huế đã cùng rủ nhau thi vào trường sư phạm, là người yêu của Tâm – cũng là một người bạn thân thiết của nhau thời trung học đang bị động viên đồn trú ở vùng núi rừng Pleiku.
Buổi sáng ở quán café Tùng – Tâm đề nghị :
- Tao “ dù “ về thăm, không ở nán lại lâu được. nhân lúc trường còn nghỉ, cả bọn lên Phố Núi chơi với tao vài hôm còn thú vị hơn nhé?
Ngay trưa hôm đó, bọn Tùng cùng lên xe đò với Tâm đi Pleiku. Bốn giờ chiều xe đã tấp vào bến. Ngày hôm sau Tâm phải về đơn vị, cả bọn đội mưa đến thăm gia đình người chị của Tùng, rồi đi lông bông các ngã phố chợ cho hết buổi chờ Tâm mượn xe jeep về để đi Kontum chơi. Đang nhởn nhơ giữa đường, cả bọn bị chiếc xe jeep màu xanh – trắng ép sát, dừng lại – kiểm tra giấy tờ. Dù đã có đủ mọi thứ giấy hộ mệnh, bọn Tùng cũng “ bị mời “ về đồn cảnh sát thị xã. Sau khi xét hỏi lý do chuyến đi Pleiku riêng lẻ từng người – vị cảnh sát trưởng ra lệnh : “ Chúng tôi buộc phải “ trục xuất “ các anh chị về lại Qui Nhơn ngay trưa hôm nay, nếu các anh chị không muốn ở lại trong nhà tạm giam !”
Lần thứ 3 Tùng lên Phố Núi cách xa lần bị đẩy lên xe quay về lại Qui Nhơn đến 24 năm. Năm ấy, Tùng ra đi như một sự trốn chạy : Vừa nhận đkg ngủ sao
ược giấy mời của Tòa án phải có mặt vào sáng hôm sau, thì ngay chiều ấy Tùng đã vội vàng gom ít áo quần ra đường đón xe . Anh chỉ kịp nói với Thúy – vợ anh, một câu: “ Tôi không thể có mặt ở nơi ô nhục đó! Không bao giờ! “.
Đến Phố Núi, cũng là lúc cơn mưa đổ ập xuống thị xã mù trời. Phố xá buồn hiu. Mưa. Tất cả như co ro, thu nhỏ, nhạt nhòa trong màn mưa dày. Không có gì phải vội, Tùng chui vào một quán nhỏ nằm cạnh góc bến xe, gọi ly café đen – nhâm nhi, phì phà khói thuốc như kẻ nhàn du lửng lơ bên lề đời sống. Nguyên đã không còn ở Phố Núi sau hơn 10 năm làm hiệu trưởng trường nam tiểu học ở đây mà chạy về Núi Thành. Tâm cũng đã chết trước ngày Yến ra trường vài tháng rồi. Còn Quế thì đang ở cách xa anh ngàn dặm tận bên kia bờ đại dương. Chỉ còn lại người chị khốn khó và ba đứa con mồ côi nơi phố núi trập trùng đồi dốc này thôi…




Năm ngoái, Quế về nước – ghé lại thămTùng đột ngột như lần anh ra đi cách nay gần 30 năm. Quế đã bỏ ra tám năm đi học – tốt nghiệp đại học ngành viễn thông thông tin, hiện đang làm việc cho hãng thông tấn truyền hình MEIS. Sau một ngày ở lại chơi bên Tùng, Quế đề nghị Tùng cùng đi Phố Núi để thăm lại những người bạn cũ của Tâm và Nguyên. Thật ra, Tùng dư biết Quế vẫn còn yêu Phố Núi với bóng hình lãng đãng của Đoan ngày nào mà anh đã có lần bảo rằng, Trung - người bạn đồng hương lớn hơn anh hai tuổi – đã viết nên bốn đoạn thơ hào sảng và trữ tình, rồi chép tay gởi tặng anh một bản như nói hộ anh bao nỗi niềm thương nhớ và biết ơn mà anh chưa kịp nói hết được với Phố Núi và Đoan. Quế vẫn thường nghêu ngao bài hát được Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ ấy khi được thu vào băng dĩa, trình diễn lần đầu – như một tình khúc của đời mình: “ …xin cám ơn thành phố có em, xin cám ơn một mái tóc mềm. mai xa lắc bên đồi biên giới, còn một chút gì để nhớ để thương…” – quả là Phạm Duy đã chắp cánh cho hồn thơ bay xa, vang xa đến tận bây giờ cho dù Trung đã không bao giờ có dịp trở lại thăm Phố Núi thêm lần nào nữa kể từ năm 81…
Xe Nguyệt Linh vào bến đúng 11 giờ - trời đang hửng nắng. Mây lãng đãng trên Phố Núi, có vùng mây sà thấp xuống – nhưng không có dấu hiệu cho một cơn mưa lớn. Tùng mở máy gọi taxi . Chưa hút hết điếu thuốc, xe đã chạy đến ngay điểm hẹn phía trước khách sạn Hoàng Anh. Xe vòng lên phố ngày xưa gọi là Hoàng Diệu. Quế vố vào vai Tùng : “ Không biết nàng có còn ở nơi căn nhà cũ không? “ – “ Cậu biết được nhà cũ, thì dần dần sẽ tìm ra nhà mới thôi mà! “ – Tùng liếc nhìn những dãy phố mới như đang vươn mình dưới ánh nắng hiếm hoi tươi tắn, những ngôi nhà nhiều tầng lộng lẫy như sơn nữ đỏm dáng, những công trình đang thi công ngổn ngang sắt đá – nghĩ, Phố Núi đã đổi thay ngờm ngợp so với lần đến thứ ba của anh vào năm 89. Cười thầm : “ Núi rừng thay đổi đến vậy, con người làm sao mà không thay đổi được đây? “.
Cô bé chủ gian hàng bán đồ gỗ mỹ nghệ phía trước mời Tùng và Quế đi vào nhà sau – cô Đoan đang ở đó. Quế có vẻ tin tưởng, một chút xao xuyến trên nét mặt như rung động - nắm tay Tùng kéo đi. Quế vừa đẩy cánh cửa kính bước vào phòng khách thì Đoan đã từ phòng riêng kế bên bước ra.
- Hình như… là anh Quế phải không? – Đoan thốt lên.
Không trả lời nàng – Quế ngắm nhìn Đoan giây lâu – cười:
- Em vẫn không có gì khác…Đoan ạ!
- Em khác xưa lắm chứ? Già và khổ lắm rồi, mà anh? - Đoan vừa cười, vừa liếc nhìn Tùng – Đã hơn ba mươi năm rồi còn gì ? Phố Núi có biết bao đổi thay…
Đoan đon đả mời cả hai ngồi vào bàn, vội bước ra sau pha trà. Quế có dịp nhìn kỹ gian phòng, anh để ý chiếc bàn thờ đặt sát vách tường giữa nhà với hai tấm ảnh . Quế bước lại – nhìn. Anh nhận ra cả cha và mẹ Đoan đều đã qua đời. Người cha trí thức,và rất nghệ sĩ ấy đã nhiều lần cùng anh trò chuyện về nhân tình thế sự, nay đã yên lặng đang mở to đôi mắt như nhìn anh: Nhân tình vẫn bạc bẽo. Còn thế sự vẫn nhiễu nhương. Cho mãi đến bao giờ?
Thấy Quế đang thắp hương cho bàn thờ cha mẹ mình – Đoan đứng lặng bên cạnh. Nàng nghĩ thầm : “ Nếu Quế không bị động viên vào mùa hè năm ấy – thì cuộc đời nàng đã đổi khác rồi - đâu chịu cảnh oan nghiệt đau buồn như ngày nay? “,
Với giọng thì thầm trong trẻo, ngập ngừng, và chậm rải – Đoan đã kể lại cho Quế nghe quãng đời lao đao của gia đình nàng sau 75 và nỗi phiền muộn của nàng sau khi có một đứa con với Hải , rồi phải ra tòa chia tay ngay sau đó hai năm. Hơn hai mươi năm một mình nuôi con – sống qua ngày với nghề dạy học, hiện đang chờ nhận quyết định nghỉ hưu…Đoan đã kể, có lúc say sưa - như muốn trút đi nỗi buồn đã tích tụ trong nàng bao năm mà chưa được chia sẻ cùng ai.
Tùng nâng tách trà lên, khẻ hớp một ngum nhỏ - giọng hồn nhiên: “ Hơi sức nào mà buồn lâu, em? “ – anh chợt cười ; “ Nếu buồn vậy thì anh và Quế đây cũng đã chết từ khuya rồi! “. Quế vỗ vào chân bạn – cười thoải mái : “ Cậu nói chính xác! Ở lứa tuổi bọn mình, thì không nên buồn chuyện gì nữa…Hãy sống vui với hiện tại hạnh phúc hôm nay, Đoan ạ! ”
Quế nhìn Đoan – giọng đắn đo:
- Em chịu làm hướng dẫn viên cho bọn anh ở thăm Phố Núi vài hôm, được không?
- Hân hạnh lắm – nàng cười, có lẽ ông trời thương các anh hay sao , nên hôm nay tự nhiên ngớt mưa, lại có chút nắng ấm chứ mấy ngày qua rả rích suốt ngày đêm, buồn lắm anh ạ!
- Không phải ông trời thương riêng bọn anh đâu – Quế nhìn Đoan đắm đuối, ông trời rất thương yêu em nữa đấy!
- Ông trời cũng…khéo sinh cái miệng của anh nữa mà!
Cả ba người cùng cười như thời thơ trẻ.
Tùng xin phép cả hai phải đến thăm người chị ở ngoài khu chợ Trà Bá – hẹn sẽ quay trở lại. Quế và Đoan đưa Tùng ra ngoài đường đón taxi. Xe vừa chạy – Quế chợt cầm lấy bàn tay Đoan : “ Chúng mình cùng đi uống với nhau ly café-hội-ngộ đi, em? Thời gian bây giờ với anh thật quý hơn tất cả… “.
Đoan dắt chiếc Sẻrius xuống lòng đường, quay lại – cười: “ Anh muốn ngồi ở đâu, thăm nơi nào tùy ý…” – “ Anh quên hết đường đi rồi! Em chở giúp anh đi! Tùy em cho anh đi đâu cũng tốt cả miễn là có em bên cạnh… “.
Trước hết, Đoan chở Quế lướt qua một vòng Phô Núi – những con đường mới quy hoạch, những công trình đang xây dựng,và các dinh thự bề thế của các đại gia mọc lên sau 90. Qua từng chặng đường, nàng nhắc nhớ nbững nơi chốn mà cả hai đã từng gần gũi, gắn bó - bằng giọng nói mơ hồ, xa vắng, có chút ngậm ngùi. Quế ngồi sau, nhìn theo từng đổi thay không kịp nhớ hết, cảm thấy mình thật sự lạc lõng giữa bộn bề đổi thay của đời sống…
Đoan quẹo vào con đường dốc nhỏ, ghé khu công viên Diên Hồng. Hai người đếm bước dần vào các dãy nhà sàn phía trong cầu treo – chọn một chiếc bàn nơi căn nhà sàn nổi trên mặt hồ tĩnh lặng, thoáng mát. Gọi hai ly café đen. Đoan lại tiếp tục giới thiệu về khu công viên, về ngôi nhà sàn nằm trên khu đồi cao kia được chọn làm nơi bắn pháo bông vào đêm giao thừa hằng năm; trong lúc Quế ngắm nhìn rừng thông cao vút dọc theo những con đường dốc, tạo nên quang cảnh thật êm đềm, yên vắng, thơ mộng rất riêng của Phố Núi cao nguyên…
Trong từng căn nhà gỗ ẩn mình dưới rặng thông, hay rừng cây rợp bóng mát dọc ven hồ là những cặp tình nhân, những cặp vợ chồng với con nhỏ, những du khách phương xa ghé lại. Bên kia bờ hồ, những túp lều nổi lục giác nho nhỏ là chỗ cho khách lai rai. Quế nói với Đoan về sự ưu đãi của thiên nhiên đã dành cho Phố Núi, nhưng nếu con người không biết giữ gìn, chăm sóc - thì chẳng bao lâu – những sự ưu đãi ấy không còn, sẽ làm cho Phố Núi tàn tạ. Cái u trầm, tĩnh lặng của Phố Núi có phần quyến rủ hơn ở Đà lạt rất nhiều.
Đoan cảm thấy hạnh phúc được uống ly café cùng Quế sau bao năm mong chờ tưởng là vô vọng. Những điều bất ngờ mầu nhiệm của đời sống luôn làm cho đời sống tươi trẻ, và lòng người được vỗ về biết bao. Cả hai rời khu công viên, Đoan lại chở Quế vòng ra phố. Nàng quay lại: “ Em đưa anh đến “ quán phở hai tô “ ngày xưa nhé? “. Quế khẻ ôm vào lưng nàng : “ Tuyệt vời rồi! Phở truyền thống của Phố Núi mà em? À, có phải quán Ngọc Sơn ở đường Hoàng Diệu mà chúng ta có lần ngồi với nhau sau khi ở Biển Hồ về không? Anh rất nhớ… “ – “ Anh có trí nhớ tốt lắm! Hai quán Mỹ Tâm và Ngọc Sơn vẫn còn, anh ạ! “. Đoan cười : “ Nhưng anh còn nhớ…hai cách ăn khô và nước nữa không? “ – Quế cười thoải mái ; “ Cứ nhìn em…ăn cách nào, thì anh ăn y như vậy mà! Cách nào rổi cũng hết hai tô thôi! Đúng không? “
Xe tiếp tục trên đường đi về ngả Biển Hồ. Trời mưa nhẹ hạt. Con đường ngày xưa không còn chút dấu vết. Quế nhớ lại lần cùng Đoan ngồi ở bờ hồ suốt ngày, trước lúc anh phải vào Saigon trình diện, với mấy ổ bánh mì, hai hộp thịt ba lát, túi kẹo Nouga và hai chai nước khoáng Vĩnh Hảo. Biển Hồ ngày ấy hoang vắng, quạnh hiu trong cơn sốt chiến tranh luôn ầm ì tiếng súng và bom mìn vang dội đâu đó trong từng cánh rừng phía xa. Anh và Đoan như hai kẻ lạc loài giữa hận thù, là những đám mây lơ lửng trôi dạt lạnh lẽo trước cơn gió dữ của sự phân tranh. Đường xuống hố hôm nay đang có đông khách tham quan. Quế cầm lấy tay Đoan cùng lên những bậc cấp để đến căn nhà lục giác trên cao. Mưa nhẹ. Nhưng gió thổi dạt dào. Se lạnh. Quế cảm thấy hơi ấm của bàn tay dịu mềm Đoan đã truyền cho mình nỗi ấm áp nồng nàn của quê nhà sau bao năm xa cách tưởng không bao giờ có thể tìm lại.
Về lại trung tâm thành phố đã hơn bốn giờ chiều. Đoan cho biết, ngày mai – nếu trời nắng ấm – sẽ đưa Quế lên thăm khu du lịch Về Nguồn cách xa thành phố hơn 5 cây số, sẽ tha hồ… Nàng rẽ vào đường Hai Bà Trưng, dừng lại ở quán cơm gà Hải Nam, vội vã vào mua hai hộp cơm gà đặc biệt. Giơ hai hộp cơm lên trước mặt Quế - Đoan cười : “ Chúng mình vào quán café ăn cơm, rồi nhâm nhi café đến tối, anh nhé? Ngày mai, em sẽ đưa anh đến thăm ngôi chùa kỳ vĩ nhất ở Phố Núi – chùa Minh Thành, đã khởi công xây dựng trên ngọn đồi rợp bóng mát, suối, và hồ thiên nhiên bao quanh thật thơ mộng, tĩnh lặng – đã gần năm năm ngày đêm kiến tạo rồi mà chưa hoàn chỉnh, có lẽ cũng phải mất mười năm anh ạ! “. Đoan vừa lái xe, vừa trò chuyện hồn nhiên với Quế như đôi bạn thuở nào.
Đoan dừng xe ở dốc quẹo lên đường Lê Quí Đôn, trước mặt là quán café Hạ Vàng trông sang trọng, rực rõ với những chùm đèn mầu lấp lánh trên các tàng lá cây cảnh mỹ thuật.
- Anh thích vào Hạ Vàng hay Đen?
- Quán Đen ở đâu?
- Sát bên cạnh đây thôi…
- Nhưng điều quan trọng không phải là anh thích, mà em thích ngồi ở đâu với anh?
- Em quen ngồi ở Đen anh à! – Đoan khẻ nói, mỉm cười – bọn bạn học cũ của em ngày xưa cũng vẫn thường rủ nhau đến Đen tán gẫu đủ thứ chuyện quá khứ hiện tại vị lai cho vui vậy mà!
Quế bước theo Đoan vào sâu trong quán, lên các bậc cấp bằng gỗ, tre – như chiếc cầu nổi được thiết kế xinh xắn – như một người xa lạ. Đoan tìm một chiếc bàn vuông nhỏ chỉ có hai chiếc ghế gỗ sát bên cửa sổ ngó ra vườn cây. Nàng đặt hai hộp cơm lên mặt bàn kính – cười : “ Anh đã đói bụng chưa? “
- Em làm tài xế và hướng dẫn viên phải đói hơn anh chứ?
- Vậy thì chúng ta cùng ăn cho nóng, anh nhé?
- Anh rất hạnh phúc được ăn bữa cơm sum họp với em. Đoan ạ! – Quế nhìn đứng lên gương mặt hơi gầy, xanh của Đoan – lòng cảm thấy bùi ngùi – Anh không ngờ chuyến về này lại được hạnh phúc đến vậy…Ở bên đó, anh…
- Anh thế nào, hở anh?
- Anh chỉ ngồi ăn vội vã một mình cho qua bữa, rồi bị cuốn vào công việc phải cập nhật từng giờ…
Cậu bé trai mang khay trà và café ra đặt trên bàn – yên lặng quay đi. Bên ngoài mưa và gió rào rào, hình như mưa đã bắt đầu nặng hạt. Ánh sáng lờ mờ hắt qua những khung cửa sổ khiến căn nhà sàn như rộng thêm và lạnh lẽo. Khu nhà phía dưới đã mở đèn sáng mầu nhạt. rải rác từng bàn khách đang ngồi thầm lặng bên tách café. Khóm trúc lòa xòa vươn lên tầng trên lay lắt một cách êm ái, thơ mộng. Quế nhìn ra sân sau - một khoẳng sân trống, một vùng cỏ cây lặng lẽ dưới mưa – chợt nhận ra, buổi chiều Phố Núi được ngồi bên Đoan ở đây quả thật là một diễm phúc bất ngờ không bao giờ quên dành cho cuộc đời tha hương của anh. Theo lời Đoan, Phố Núi có hơn hai trăm quán café – trong hai trăm quán ấy, giờ này – chắc có nhiều người yêu nhau được nhận bao điều an ủi và ấm áp như mình – trong lúc ngoài trời, mưa và gió vẫn thản nhiên rào rạt, cuồng nộ như không bao giờ dứt...


Phố Núi, tháng 8 năm 2007
MANG VIÊN LONG

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2011

GÃ NHÀ QUÊ ĐI SAIGON Truyện Ngắn MANG VIÊN LONG



GÃ NHÀ QUÊ ĐI SAIGON




Truyện Ngắn
Mang Viên Long





Đã gần năm năm rồi Thân chưa có dịp vào Saigon sau ngày dự đám cưới em gái nhà thơ Chơn Ngữ ở nhà hàng Sinh Đôi. Lần này – Thân lại vào Saigon không chỉ vì một lý do, mà có nhiều lí do : Thăm Kiều-em vừa tốt nghiệp đại học đang xoay xở kiếm việc làm, cụng ly với những người bạn học cũ ở Cường Đễ, thăm vài nhà thơ quen thân cũ, và hai nhà văn mới quen trong vài năm gần đây.
Có một lí do “ khó nói “ – nhưng cũng rất quan trọng với gã là, sẽ tìm đến đường Tô Hiến Thành để thăm lại cô bạn gái đeo ba lô ngồi cạnh cùng bàn tiệc năm nào ở Sinh Đôi mà nhà thơ Chơn Ngữ cho biết đã chia tay với nàng từ khuya rồi…
Mặc dầu vài người bạn học cũ đang làm ăn khấm khá và có chức quyền vẫn thường phone về luôn nhắc câu : “ Cậu cứ đu xe đò vào tới Saigon, tụi mình sẽ lo cho cậu từ A đến Z mà ! “ – nhưng gã đã chuẩn bị cho chuyến ra di hơn một tháng nay. Bạn bè đâu có chỗ, có giới hạn – không lẽ cứ đu xe đò là đi ngay được? Đu xe đò cũng phải có tiền. Đụng thứ gì cũng phải có tiền. Thân nghĩ - tự cười với mình: “ Bước ra đường mà không có tiền trong túi thì đi đứng làm sao cho vững được đây- nhất là ở cái xứ phồn hoa đô hội xa lạ, hễ mở miệng ra là phải có tiền đi kèm ? “.
Đầu tiên, Kiều – chị mua về cho Thân chiếc điện thoại di động Nokia giá bốn trăm tám chục ngàn, chỉ dùng để “ a lô ‘ và nhắn tin cho đỡ tốn tiền thôi. Phải mất gần ba mươi phút hướng dẫn cho Thân biết sử dụng gọi và nhắn tin, rôi lưu một số máy gã cần liên lạc ở Saigon vào máy – Kiều - chị dặn : “ Anh phải bỏ nó vào túi áo cẩn thận, nếu rơi mất – thì coi như anh về không, chẳng gặp được “ cô “ nào đâu nhé? “.
Gần ngày đi hai hôm, Thân bảo Kiều – chị mua về 5 ki lô nếp loại một, 2 kí lô thịt ba chỉ, 2 ki lô đậu xanh cà vỏ để nấu nồi bánh chưng làm quà cho Kiều - em và bạn. Buổi sáng ngâm đậu. Gút nếp. Ướp thịt. Xắc hành. Rọc lá chuối. Chẻ lạt. Suốt buổi chiều tẩn mẩn ngồi gói hơn 20 cái bánh chưng to đùng xếp đầy thùng tôn. Suốt đêm, Thân thức canh thùng bánh cho thật nhuyễn đến 6 giờ sáng hôm sau…
Kiều – chị dắt xe ra sân chuẩn bị lên trường dự lễ tổng kết cuối năm, thấy Thân đang lui cui vớt bánh phơi ra nong cho nguội – vừa cảm thấy thương anh – vừa lạ lùng, thích thú: “ Anh chuẩn bị đi thăm cô nào mà chu đáo quá vậy? “.
Ngước lên nhìn Kiều – chi, gã không trả lời, nói : “ Em ghé bà Bảy chợ Huyện lấy giùm anh 50 chiếc bánh ít lá gai nhé? “.
- Trưa nay lấy làm sao kịp?
- Anh đã “ đặt hàng “ từ hôm qua rồi!-
Kiều – chị không hỏi thêm, cười cười, dắt xe ra ngỏ. Thân nói vói theo : “ Nhớ nói loại đặc biệt của anh Thân đặt nhé? “
- Lại có loại “ đặc biệt “ nữa sao?
- Bà ấy chỉ làm bánh 2 ngàn, anh đặt loại 3 ngàn – trông cái bánh to to một chút, chứ “ bánh ít “ mà chút xíu vậy – ai ăn, ai nhịn?
- Anh mang bánh vào Saigon cho cô nào mà đặt nhiều vậy, khai thiệt đi ?- Kiều – chị quay lại nhìn gã, cười nụ.
- Anh có ma nào ở chốn đô hội ấy đâu mà hỏi, mầy?- gã chợt cười – bộ em tưởng con gái Saigon “ mê ‘ ăn bánh ít lá gai hơn humburger, socolat hay sao?
Thân mỉm cười với mình khi nghĩ nhớ đến câu ca của người con gái không biết ở miền nào đã nói với chàng trai Bình Định từ thuở xa xưa rồi : “ Muốn ăn bánh ít lá gai/ Lấy chồng Bình Định sợ dài đường di ! “



Cơm trưa xong Kiều – chị giúp Thân đóng gói thùng bánh chưng, bánh ít – xếp vào một góc nhà. Nhìn hai thùng “ quà nhà quê “ của anh, Kiều – chị không nhịn được cười: “ Thiên hạ chỉ cần có vài gói quà nhỏ đủ bỏ trong túi xách mà cũng giá trị gấp ngàn lần 2 thùng “ đặc sản “ to đùng của anh…”
- Đúng là đàn bà con gái các người ưa nghĩ lung tung quá! – Thân cười thoải mái, đâu phải đắc tiền là quý cả đâu , em?
- Nhưng anh mà “ ôm “ hai thùng này lên xe buýt, ai mà cho anh lên?
- Không cho, thì anh đi xe thồ xuống ga – dễ ợt mà?
- “ Dễ ợt mà “ – Kiều- chị lập lại, nhưng anh phải chuẩn bị cho nhiều “ bác xanh, bác đỏ “ vào nhé?
Gã im lặng.
Kiều – chị lườm anh - chọc tiếp: “ Ai mà không biết chuyện gì cũng “ dễ ợt” nếu túi đầy tiền? – Kiều – chị lại liếc nhìn anh – cười : “ Mà anh có trong bóp bao nhiêu tờ xanh vậy? “
- Bốn tờ! Gã đáp gọn.
- Trời đât! Kiều – chị cười ngặt nghẽo – vào chốn phồn hoa sang trọng vậy mà trong túi chỉ có bao nhiêu sao?
- Chứ em bảo có bao nhiêu tờ mới đủ?
- Ít nhất là 10 tờ, ông anh yêu quý ạ!
- Ăn thứ gì chỉ trong một tuần mà đến 5 triệu bạc , mầy?- Gã có vẻ bực mình.
Kiều – chị thấp giọng, nói như giải thích : “ Anh cứ thử tính xem – mọi thứ từ A tới Z đều …tăng gấp 3 lần nếu ở thị trấn, gấp 4 lần nếu ở thôn quê, thì cũng tự nghĩ ra rồi? “
Thấy anh có vẻ đăm chiêu, bán tín bán nghi – Kiều – chị tiếp:
- Mấy đại gia hay quan chức vào quán một lần thôi – cả bóp anh góp lại cũng không trả nổi mà?
- Mày nói chi chuyện ấy? Họ ăn nhậu có chỗ chịu, chớ anh ăn nhậu có chỗ nào chịu đâu? – Thân nhếch cười, phải gồng mình mà chịu, em à!
Thân yên lặng, nhớ lời cậu thanh niên con của vị quan chức đại gia trên phố hôm nào ở quán café Trúc khoe với đám bạn choai choai cùng bàn, cậu ta đã mang theo hơn 10 triệu, mà sau hai tuần không còn tiền mua vé xe đò về nhà – nghĩ mình phải khác bọn ấy. Không thể “ đốt tiền “ vào những cuộc triền miên ăn chơi như bọn COCC được. Tiền vào dễ, cũng sẽ ra dễ. Đồng tiền phi nghĩa, ăn uống sao ngon? Sao bền? Gã nghĩ, đồng tiền của gã kiếm được tính bằng mồ hôi, và đôi khi cả nước mắt nữa thì không thể phung phí vào mấy chuyện tào lao . Đâu phải “ ném tiền qua cửa sổ “ là hào hoa, lịch lãm ? “ .
Sau phút im lặng – gã nhìn cô em gái lòng có vẻ thán phục – nói : “ Em lấy cho anh mượn thêm 2 tờ nữa đi! “.
- Anh yên tâm – Kiều – chị cười hiền, em đã lo trước hết rồi. Kiều – em mới ra trường, đang tìm việc, xe máy chưa mua nổi, em sẽ gởi cho nó, nhờ anh mang vào luôn….
Nhìn Thân đang có vẻ lo lắng, Kiều – chị đến kéo vai anh – giục ; “ Gần đến giờ ra ga rôi kìa – nàng cười, anh phải mang thêm, nếu thừa thì mang về - lỡ thiếu hụt dọc đường thì biết mượn ai trong cái đất Saigon hoa lệ mà lắm nhiêu khê ấy nhỉ? “.
Kiều – chị vội dắt xe ra sân, cùng Thân khiêng thùng bánh chưng đặt lên phía trước yên, chồng thùng bánh ít lên – gã ngồi phía sau ôm chiêc xách tay áo quần, hai túi nylong nhỏ chứa lỉnh kỉnh đủ thứ “ đặc sản “, kể cả hủ mắm ruột đã dược gã dang nắng đủ ngày.
Chuyến tàu SE3 từ Diêu Trì đi Saigon được thông báo sẽ trễ một giờ so với giờ quy định. Thân không lạ gì chuyện tàu bè xe cộ bị trễ hẹn – nó đã trở nên bình thường, quá bình thường ở nơi này! Chuyện kì dị mà xảy ra thường ngày, thì cũng được “ coi như “…bình thường thôi! Chẳng có ai chịu để mắt đến nữa đâu?. Thân nghĩ tiếp, cứ cái đà dửng dưng và vô cảm vậy – thì xã hội của ngày mai sẽ thế nào? Gã thường lẩn thẩn tự hỏi mỗi khi “ đụng “ phải những điều “ bình thường” như vậy mà chẳng tìm được câu trả lời !?
Nghe tiếng loa vừa thông báo, Kiều – chị quành xe ra đường, ghé trước một quán ăn. “ Em dừng ở đây làm gì vậy ? ‘ – Thân cằn nhằn.
- Anh vào ăn tô cháo gà đi – Giọng Kiều – chị ân cần, bây giờ đã 5 giờ, trễ một giờ nữa – lát nữa tàu chạy sẽ đói mà!
Thân buộc phải xuống xe, nhưng mở túi nylong lấy ra chiếc bánh chưng to - giơ lên : “ Anh đã cuẩn bị rồi đây nè! “ Gã cười : “ Chiếc bánh này ăn hai người cũng không hết mà! “. Tô cháo gà đặc biệt bốc khói đã dặt trước mặt – gã cười, chìu em- vừa ăn, vừa càm ràm : “ Anh nghi mấy con gà trong nồi cháo của bà này quá, Kiều ạ! “. Kiều – chị có vẻ ưng bụng ngồi nhìn anh ăn - góp chuyện ; “ Vụ cúm gà đã qua rồi mà, anh? “ – “ Ai biết nó trở lại lúc nào ? “ – “ Thì nghe báo đài thông báo chứ? “ – “Trời ơi! báo đài mà thông báo thì…nó đã chui vào bụng khối người rôi, em ơi! “.
Kiều – chị lại chạy xe thẳng vào sân căngtin trong khuôn viên ga – dựng xe, xuống đồ. Quay lại nói : “ Anh em mình uống ly café tạm biệt nhé? “. Thân liếc nhìn Kiêu – chị, cười : “ Ý nghĩ hay đó! Anh cũng đang thèm ly café ở sân ga này lắm! Đã mấy năm rồi… “.



Kiều – em đã phone cho Thân từ lúc tàu đang còn ở ga Biên Hòa – báo tin đang đợi tàu vào ga Hòa Hưng. Thân yên tâm, không cần bấm máy gọi cho em nữa. Con gái vẫn thường chu đáo hơn bọn con trai nhiều. Con trai - cà đuỗng tối ngày, nói hết hơi cũng chỉ “ dạ “ mà không chịu làm! Gã vẫn thường nghĩ, cho dù cha mẹ không còn, không có người nào thủy chung, nhưng có hai cô em bên cạnh đời mình luôn chia sẻ, chăm sóc – cũng đã hạnh phúc lắm rồi! Đàn bà con gái thì nhiều, nhưng tìm cho ra “ một nửa của mình “ quả thật không đơn giản chút nào? Có biết bao cuộc tình bị “ so le “ mà khổ đau cả đời rồi?

Với chiếc xe DD màu đỏ cà tàng mua lại của bà chủ nhà kèm trẻ - Kiều - em lại thồ Thân về nhà trọ ở mãi ngã tư Phú Nhuận. Căn phòng nhỏ, hai sinh viên cùng trọ, giá một triệu mỗi tháng. Kiêu – em đã cùng thuê ở chung với cô bạn người Vĩnh Long từ năm học thứ hai. Thân nhìn ngắm căn phòng, thấy không còn chỗ nào dành cho mình - cảm thấy áy náy. Kiều – em cười ; “ Anh khỏi lo đi! Cô bạn em về quê hai tuần nữa mới lên mà! “. “ Vậy thì tốt! Anh chỉ ở lại một tuần thôi mà! Ở Saigon mà có được một nơi đặt lưng như vầy – là quá sướng rôi còn gì? “ – Thân ngồi ngã người lên chiếc ghế dựa – nhìn em…Tự nhiên gã cảm thấy em của mình đang đổi khác, cao lớn hơn, lanh lẹ hơn, và cũng xinh xắn hơn lúc còn ở quê ngày nào cùng gã làm vườn, gánh lúa. Nếu được chưng diện thêm, Kiều – em không thua mấy cô người mẫu mà gã đã được xem trên truyền hình…
Sau bữa cơm trưa đạm bạc Kiều – em đã làm sẵn – Thân nghĩ ngay đến dự định trong bảy ngày còn ở lại Saigon: Gã sẽ dành 3 ngày đầu cho bạn học cũ đồng hương Cương Đễ, 3 ngày tiếp cho bạn văn quen thân , và 1 ngày cuối để tìm đến đường Tô Hiến Thành - phường 13, quận 10 - thăm người con gái đeo ba lô năm nào… Thân nghĩ, với Saigon – bảy ngày là cũng đã tạm đủ rồi! Làm sao gã có thể chen chân vào Saigon lâu hơn thế? Saigon ào ào chạy qua trước mặt gã như cơn lũ, nếu không cẩn thận – gã cũng có thể bị cuốn trôi đi mất tiêu!
Sáng hôm sau, Thân nhờ Kiều – em chở đến quán café Đơn Dương đường Út Trâm – quận một, theo lời Ngô gọi đến. Đến nơi thì đã thấy Ngô, Lê, Phan đang nồi chờ ở chiếc bàn đặt bên ngoài hè đường của quán. Lâu ngày gặp lại nhau – mừng ơi là mừng. Cứ tường tháng năm trôi qua sẽ cuốn đi tất cả, nhưng không ngờ, tình bạn vẫn mãi còn. Lê vừa bắt tay Thân – vừa giải thích : “ Ngồi ở ngoài này, nhìn thiên hạ đi phố cho vui mắt, lại chỉ có phân nửa tiền , anh à! “. Thân cảm thấy thật hạnh phúc với ly café đầu tiên ở Saigon bên bạn bè cũ mà suốt mấy năm đã lặng lẽ ao ước, mong chờ.
Lại một cuộc hội ngộ đông đủ hơn ở quán cafe Hương Xuân cùng Ngô, Phan, Lê với Nam, Thiên, Trần, Mai, Kim, Hoàng…vào buổi sáng hôm sau. Cuộc vui kéo dài đến hơn 10 giờ - cứ mối khắt đi qua là có thêm người mới đến. Lê và Phan đề nghị : “ Bây giờ chúng ta dời địa điểm đên 1b Thích Quảng Đức nhé? “
- Để làm gì vậy? – Thân ngạc nhiên hỏi.
- Nhâm nhi rồi, bây giờ đến mục…cụng ly chứ còn gì nữa, anh?
- Không sỉn, không về nhé? - Nam nhìn Thân cười cười.
- Tôi cũng sẽ gắng… tới bến với anh em mà! Thân cười thoải mái – nhưng có lẽ, không nên để…nằm tại chỗ!
Ba ngày đều có 3 lần gặp – có ngày, xong café là đồi địa chỉ, ngồi đến 2, 3 giờ chiều. Thân phục mấy người bạn đã ngồi triền miên ròng rã hơn 6 giờ mà chẳng cảm thấy mệt mỏi vì rượu. vì chuyện vãn tâm tình. Không khí quán xá nhộn nhịp, tấp nập suốt ngày đêm ở đây quả thật đang làm gã cảm thấy chóng mặt. Nhưng mỗi lần được mời cụng ly - Thân nhận thấy mình đang nhận thêm tình cảm bằng hữu đồng môn, đồng hương thật đặc biệt, nó đã làm ấm lại tấm lòng lạnh lẽo bao năm lặng lẽ an phận của anh nơi một góc quê nhà - nên dã sôi nổi cụng hoài mà chưa tới bến! Đúng là đàn ông không biết uống rượu như cờ không có gió. Cờ không có gió thì nằm mẹp, ủ rũ – đâu còn ra cờ xí gì nữa? Những ly rượu Saigon đã cho Thân nhiều niềm vui và an ủi.
Lại ba ngày tiếp theo với bạn văn – hết hẹn nhau ở quán Nghệ Sĩ , đến Bông Giấy – rồi ngày cuối là ở café Bross đường Nguyễn Văn Thủ, quận một, nhân phát hành tuyển tập truyện ngắn của nhóm thân hữu và tập nhạc họa của nhạc sĩ – bác sĩ Trương Thìn có cái tựa rất lãng mạng là “ Dạ Khúc Trăng Thơm “( phổ thơ Hàn Mặc Tử và Bích Khê )- Thân được gặp những người bạn văn cũ – có người đã hơn 40 năm, vài chục năm mới gặp lại. Gặp nhau – đã hơn 40 năm, mà gã vẫn cảm thấy tình thân vẫn vậy, vẫn đằm thắm, gần gũi và son sắc như xưa. Cái nghĩa tình văn thơ rất lạ - dường như đã được đồng cảm sâu kín từ bao giờ qua những trang viết của nhau, nên gặp nhau là rất thân thiết và hồn nhiên. Gã cảm thấy thoải mái, và hạnh phúc với bao tấm tình được chia sẻ trong ngần ấy năm xa cách, và những cái bắt tay ấm áp gắn bó lúc giã từ.
Ngày cuối cùng đã đến với Thân: Gã lấy trong xách ra bộ đồ mới, nói với Kiều – em : “ Này, chịu khó ủi cho anh bộ đồ này đi ! “.
- Chiều nay anh định đến thăm ngài thị trường trước khi về quê hay sao? – Kiều- em liếc nhìn anh, có vẻ ngạc nhiên - cười.
- Còn hơn…thị trưởng nữa mà!
Diện bộ đồ mới cứng vào, xỏ đôi giày da đánh sỉra láng bóng ( mấy hôm rồi gã chỉ đi giày sandal thôi ) – gã vui vẻ chào em, và vội vã bước ra cửa. “ Anh không nhờ em làm xe thồ nữa sao? “ – “ Khỏi cần, anh gọi taixi mà! “.
Xe dừng đúng ngay con hẻm nằm trên đường Tô Hiến Thành, phường 13 – quận 10 như lời dặn của Thân. Gã bước chậm rải, dò từng con số - và gỏ cửa : “ Có ai ờ nhà không? “.
Người mở cửa là một cậu con trai – áng chừng 25 tuổi, cao lớn – ăn mặc rất model : “ Chú cần hỏi ai ? “.
- Có phải nhà của cô…Kim không, cháu?
- Thưa phải, mời chú vào…
Vừa bước vào nhà, Thân đã gặp ngay Kim đang từ nhà sau đi lên trong bộ váy mầu sẫm. Một thoáng lạ lẫm, suy nghĩ – chợt Kim reo lên : “ A, anh Thân! Anh mới vào Saigon phải không “.
Cùng ngồi với Kim vào bộ salon mousse to tướng đặt giữa phòng - Gã cười:
- Anh có chút chuyện phải vào Saigon… đã mấy hôm rồi!
- Bao giờ anh về lại quê?
- Chiều tối mai! – Gã ngập ngừng , 8 giờ tối tàu khởi hành.
- Sao lúc nào anh cũng vội vã cả vậy không biết?
- Cuộc đời anh vậy mà, vội vàng rồi cũng không đi tới đâu!
- Bây giờ anh có rảnh rổi không?
- Dĩ nhiên là cả buổi chiều dành cho Kim mà!
- Cám ơn anh! Em muốn mời anh café – được chứ, anh?
- Anh không “ dại “ gì mà từ chối như năm nào rồi!
- Anh nói chuyện nghe vui lắm!
- Không! Anh chỉ nói thật…Lỡ dại một lần thôi chứ? – Gã cười hồn nhiên.
Ra đến đầu hẻm, Thân gọi chiếc taxi cũng vừa trờ tới. Hai người lên xe. Kim chọn quán café gần nhà ở đường Sư Vạn Hạnh – cạnh bệnh viện quận 10 - đi bộ vào hẻm khoảng một trăm mét. Quán có tên rất ngộ : “ cafe Lãng “!
Kim bước lên bậc cấp để vào khu nhà sàn trang trí nhiểu cây cảnh và hoa. Quán chiều mưa, nên vắng. Khung cảnh yên tĩnh, đẹp. Bên ngoài, mưa lất phất - ẩm ướt và se lạnh. Người phục vụ là một cậu con trai – lịch thiệp, và vui tính. Kim gọi 2 ly café. Thân gọi thêm gói Craven “ A “ . Gã rót trà ra tách, mời Kim : “ Em uống chút nước trà cho ấm đã ! “. Kim đỡ tách trà từ tay Thân : “ Mời anh! “ – ngắm nhìn gã giây lâu, nàng tiếp : “ Anh thấy không có gì khác! “ – “ Anh khác nhiều lắm mà em chưa thấy đó thôi! “.
Cậu con trai nhẹ nhàng đặt hai tách café lên mặt bàn kính – “ Mời cô chú! “. – Thân nhìn cậu ta với đôi mắt thích thú : “ Cám ơn cháu! “ – Quay lại nói với Kim ; “ Lạ nhỉ? Sao mấy quán kia người ta đều dùng toàn tiếp viên nữ ăn mặc hấp dẫn là vậy – mà Lãng lại chỉ dùng các cậu thôi? “.
- Saigon vẫn còn nhiều cái dễ thương như vậy, mà anh?
Chiều Saigon như thấp xuống vì mây và những cơn mưa ngắn ngủi bất chợt. Dường như không ai để ý gì dến mưa bởi chung quanh họ có biết bao thứ gần gũi quyến rủ cần để mắt vào. Nên mưa cứ mặc nhiên mưa. Rồi dứt. Chẳng ảnh hưởng gì đến ai cả. Xe vẫn chạy. Người vẫn đông. Thân nói ý nghĩ này cho Kim: “ Có khi náo em nhìn mưa không nhỉ? “
- Đôi khi! Đó là những lúc em ngồi một mình…
- Còn lúc này?
- Anh đến cũng hơi sớm, nhưng cũng rất trễ…
- Em nói gì, anh chưa hiểu?
- Đơn giản thôi mà anh?
- Nhiều cái nghĩ là đơn giản, nhưng thật chẳng đơn giản tý nào- Gã do dự - như Tình Yêu chẳng hạn…
- Anh nói đúng! – Kim khẻ dặt tách café xuống, liếc nhìn xa ra khoảng vườn phía trước – trời đang mưa…
- Em cho anh biết ý nghĩa của “ hơi sớm, mà rất trễ “ là gì đi?
- Ngày kia em sẽ lên máy bay để đi định cư ở nước ngoài rồi! – Kim thở dài, may mà còn gặp lại anh...
- Còn chuyện “ rất trễ “ là sao? – Gã nhìn đắm đuối lên đôi mắt được phản chiếu ánh đèn mầu long lanh, sâu thẳm của Kim.
- Nếu anh gặp lại em trước đây một năm – thì mọi chuyện có thể khác – Kim dừng tia nhìn lên khuôn mặt đăm chiêu của Thân – Em không có niềm tim yêu nào ở đây, nên phải về với mẹ và em ở bên ấy…
Thân không nghĩ rằng nếu gặp Kim trước đây một năm thì mọi chuyện sẽ khác, nhưng tin rằng Kim đã có phút nói thật. Gã chợt cầm lấy bàn tay Kim, nhìn – giây lâu – thì thầm : “ Em cho anh hôn lên bàn tay này trước lúc em xa nhé? “


Saigon tháng 6 năm 2011
MANG VIÊN LONG