Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

ĐIỀU MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU Truyện Ngắn MANG VIÊN LONG



ĐIỀU MẦU NHIỆM CỦA TÌNH YÊU

Truyện Ngắn
Mang Viên Long



Nghiễm tình cờ gặp nàng trên chuyến tàu từ Saigon về Nha Trang khi nàng và cô em gái cùng vào chung một toa giường nằm số 16 với anh. Vì vội, anh đã chấp nhận lấy vé của táu SQN 2, bởi nếu chờ SE2 thì phải mất thêm ba ngày nữa! Nghiễm nghe nói tàu SQN2 là loại tàu “ xe cải tiến “, không có một chút ưu tiên nào trên đường ray, dừng nghỉ nhiều trạm, và phải nằm chờ cho các loại tàu SE chạy qua. Dù biết vậy, nhưng phải nằm lại Saigon thêm ba ngày, cũng thật là nóng ruột. Chẳng thà nằm yên trên tàu còn hơn sáng chiều cứ bị rủ rê níu kéo lai rai hoài nơi các quán nhậu của mấy người bạn học cũ trong lúc lòng dạ đang hầm hập nóng như lửa ! Công việc ở xưởng vẻ Nghiễm phải tạm gác lại hơn tuần lễ nay rồi, kéo dài thêm ba ngày, thật không an lòng chút nào. Ngày khai trương cuộc triển lãm chung với hai người bạn gần kề, mà Nghiễm phải có số tranh tương đối nhiều hơn hai bạn ở phuong xa; ba phát thảo đã thành hình từ hai tháng trước, nhưng chưa được đưa lên giá vẽ!
Bảy giờ ba mươi tối tàu rời ga Hòa Hưng, Nghiễm lên giường nằm tầng dưới – định ngủ một giấc. Hai chị em nàng nằm hai giường đối diện, anh hơi ngạc nhiên vì không hề nghe tiếng nói cười của hai chị em, dầu khi mới vào chung toa, Nghiễm nhận ra nét tươi trẻ của cô chị phảng phất chút gì như nghiêm nghị, hờ hững. Nghiễm nhắm mắt một lát, cố dỗ giấc ngủ vì sau gần tuần lễ anh chưa được ngủ trọn một đêm nào sau những cuộc rượu tới bến chung vui với bạn bè. Saigon - nơi của những quán café, quán trà nhộn nhịp – và, dĩ nhiên là quán nhậu – triền miên đêm ngày, đã làm cho anh quay vòng…
Tàu chạy chưa được bao lâu thì ngừng. Không còn nghe tiếng rầm rập lay lắt của con tàu để ru ngủ, Nghiễm chợt mở mắt nhìn lên tấm kính cửa sổ, không nhận ra nơi ngừng là ga nào. Phía giường bên, cô em gái cũng ngồi nhổm dậy - hỏi : “ Sao vậy anh? Có chuyện gì vậy, anh? “.
- Anh cũng …như em thôi mà! – Nghiễm gắng cười thân tình, đi tàu loại “ xe cải tiến “ này em dừng nên thắc mắc…
- Sao có loại “ tàu xe cải tiến “ - lạ vậy nhỉ ?
- Đâu có gì lạ, em! – Nghiễm chợt cười lớn – là loại tàu chạy …như xe cải tiến, hay như rùa vậy mà!
Nghiễm bổng thèm đốt một điếu thuốc. Anh ngồi hẳn dậy – bước xuống giường, kéo mở cánh cửa toa - bước ra ngoài hành lang. Cô em gái cũng bước ra khỏi phòng, đứng nhìn ra một vùng sáng chập chờn ánh diện phía ngoài cửa kính. Hút xong điếu thuốc, Nghiễm quay về phòng thì gặp cô em gái còn đứng ở hành lang, ngơ ngác nhìn ra ngoài khung cửa. Anh dừng lại – vỗ tay lên vai cô bé : “ Em đi về đâu? “
- Dạ, Nha trang…
- Anh cũng xuống ga Nha trang đây!
- Nhả anh ở đường nào?
- Góc đường Lê Thánh Tôn – Nghiễm thân tình đáp – còn em ?
- Em về Trần Quí Cáp..
- Chị của em cùng đi phải không?
- Dạ!
- Hai chị em vào Saigon thăm chơi hay có việc gì vậy ?
- Đi chữa bệnh cho chị…
- Chị em đang bị bệnh sao? – Nghiễm ngạc nhiên, anh thấy người vẫn khỏe mạnh cơ mà?
- Anh à! – cô bé ngập ngừng – chị em bị bệnh câm …
- Từ lúc nào vậy, em?
- Giữa năm lớp mười…
- Tự nhiên vậy sao?
Nghiễm thật sự cảm thấy tội nghiệp cô gái có khuôn mặt tươi trẻ phúc hậu thánh thiện đang nằm lặng lẽ phía trong phòng. Mới gặp lần đầu khi vào chung phòng, Nghiễm cũng đã nhận ra nét hờ hững, lạnh lùng rất khác lạ. Vừa trang nghiêm, cũng vừa mời gọi. Trên nét mặt thản nhiên ấy, ngời sáng một tâm hồn sâu lắng thật quyến rủ.
- Sao ba má em không đưa chị đi, em nhỏ vậy làm sao mà biết đường biết cách? Giọng Nghiễm ôn tồn – cởi mở như một người thân.
- Ba em mất năm chị em bị bênh câm – còn mẹ em phải lo bán buôn ở chợ - tiếng cô bé nhỏ dần – Em vào nhà bà dì ở đường Sư Vạn hạnh, quận 10 nhờ dì lo giúp mà…
- Vậy bác sĩ đã chữa bệnh ra sao rồi?
- Họ chỉ khám, hội chẩn đề nghị giải phẩu, nhưng dì em không chịu!
- Sao dì không chịu, em?
- Các bác sĩ không bảo đảm sau phẩu thuật chị em sẽ nói dược, anh à…
- Chữa bệnh mà không bảo đảm, mò đoán – thì …
Tàu bắt đầu rục rịch chuyễn bánh, cô bé cũng bắt đầu kể về người chị thân yêu của mình: “… Năm chị học lớp 10 , buổi sáng - dù trời đang mù sương, se lạnh, và có mưa lất phất của cơn bão từ đã được thông báo - nhưng ba em vẫn đi bộ tập thể dục về như mọi hôm. Sau khi tắm xong, ba ra giếng trong sân nhà giặt áo quần lót. thì bị ngã ngay ở giếng. Mẹ em trông thấy chạy sang nhà bên nhờ người ẵm đưa ba vào nhà. Thấy ba em đang bắt đầu sùi bọt mép, mặt mày tái xanh, mắt nhắm nghiền - ngưởi ta lật đật đưa ngay ba lên xe honda chở đến bệnh viện cấp cứu. Sau mấy ngày cho thở oxy, truyền dịch, và cuối cùng đặt máy hô hấp – các bác sĩ phòng cấp cứu nội hội chẩn quyết định mổ não lấy máu bị ứ đọng khi các mạch máu bị vỡ - hai ngày sau, ba em bị co giật từng hồi, rồi bất động…Buổi trưa khi đi học về chị em định vào bệnh viện trực thay mẹ thì chiếc xe cấp cứu của bệnh viện đã chở ba và mẹ về!
Mẹ em thất thểu đi theo sau chiếc băng ca – khóc nức nở. Chị em cũng chạy ùa ra đón ba vào nhà. Sau một ngày một đêm vật vã than khóc thương ba – chị bổng không nói được tiếng nào nữa! Từ ngày ấy – mẹ đã đưa chị Hoài Thương đi chữa bệnh nhiều nơi, nhiều thầy – nhưng vẫn chưa nói được tiếng nào…”
Nghiễm quay lại, thoáng nhìn vào phòng – người con gái có cái tên Hoài Thương thơ mộng đang nằm im lìm, tấm chăn hoa đắp ngang ngực – có lẽ nàng đang tìm quên trong giấc ngủ ? Anh chợt cầm lấy bàn tay của cô bé : “ Nhà em ở số mấy đường Trần Quí Cáp vậy? “ – “ Dạ, số 16/4 ạ! “ – “ Sau này, anh sẽ tìm đến thăm em và chị Hoài Thương nhé? “ – “ Dạ ! “



Rất may là ngày Valentine chỉ cách sau hôm gặp chị em Hoài Thương chỉ mười hôm. Nghiễm ra phố sớm, ghé cừa hàng bán hoa đường Độc Lập. chọn mua bó hoa Hồng thật tươi, thật đẹp. Anh cũng mua thêm hộp socolate, và không quên đem theo tập thơ tình của người bạn ở Menphis vừa gởi tặng để làm quà cho Hoài Thương.
Nghiễm dừng xe trước hiên nhà – số 16/4 , ngập ngừng ở cửa. Cô em gái hôm nào chạy ra, mừng rỡ như đón người thân di xa về : “ Em chào anh ! Mời anh vào chơi…”.
- Có chị Hoài Thương ở nhà không, em?
- Dạ có! Cô bé cười ngượng ngùng – chị đang tắm ạ…
- Được rồi! – Nghiễm thàn nhiên ngồi vào ghế - anh sẽ chờ…
Cô bé đứng tần ngần, nhìn Nghiễm với ánh mắt vừa lạ lẫm vùa thích thú . Nghiễm đốt một điếu thuốc:
- Có mẹ ở nhà không em?
- Mẹ ra chợ lo dọn hàng từ hồi giờ 5 giò ba mươi, anh ạ!
- À, hôm trước nói đủ thứ chuyện mà anh quên hỏi tên em rồi?
- Em tên Hoài Thanh…
- Hoài Thanh – Nghiễm lẩm nhẩm – em đang học lớp mấy?
- Lớp 11…
Hoài Thương từ nhà sau đi ra – nhìn thấy Nghiễm, nàng lùi lại một chút, vuốt lại tóc. Anh đã được nghe Hoài Thanh kể về nàng, tuy không nói dược- nhưng Hoài Thương vẫn còn nghe được, rất chậm, đôi khi không chính xác. Dì đã mua cho bộ khuyếch âm nhỏ, nhưng Hoài Thương không bao giờ chịu đeo vào tai – Nhìn Hoài Thương, anh cười: “ Anh đến thăm em…”. Ánh mắt nàng sáng lên, và nụ cười thay lời cám ơn thật nồng nàn.
Hoài Thương đến ngồi vào chiếc bàn nhỏ dành riêng kê gần bộ ghế salon giữa phòng khách. Trông tươi tắn, tnh khiết như một đóa Hồng trắng còn đẫm hơi sương. Nàng khẻ kéo nhẹ chiếc hộc bàn, lấy ra tập vở học trò dày, một cây bút kim – lặng lẽ viết : “ Anh Nghiễm đến chơi hay có chuyện gì? “
Nghiễm rời chỗ, đến ngồi vào chiếc ghế dựa nhỏ bên cạnh chiếc bàn của Hoài Thương . Anh lấy bút ra, viết nắn nót : “ Hôm nay là ngày Valentine – anh đến thăm, và tặng chút quà cho em đây! “
“ Cám ơn anh Nghiễm! Mà anh tặng cho em món quà gì? “
“ Một bó hoa hồng, hộp socolate và…một tập thơ! “
“ Em cám ơn anh ! Nhưng em không nhận! “
Đọc xong lời đáp của Hoài Thương – thật sự Nghiễm đã sứng sốt giây lâu. Nếu không có ánh mắt thầm nói: “ Em xúc động lắm” – và nụ cười : “ Em xin cám ơn tấm lòng cao quý của anh! “ – thì Nghiễm đã buồn giận biết chừng nào. Anh nhìn thẳng vào đôi mắt đang mở to, sáng và long lanh niềm xúc cảm của Hoài Thương – rồi mỉm cười, viết vào trang giấy : “ Rồi sẽ có ngày em sẽ rất hạnh phúc khi nhận quà của anh, Hoài Thương ạ! “ – nàng viết ngay : “ Em cũng hy vọng và tin tưởng như anh! “. Nghiễm cảm thấy vui hơn khi nghĩ đến lúc đưa Hoài Thương đến dự buổi khai mạc triển lãm vào cuối tuần – sẽ chỉ cho nàng xem bức tranh “ Hoài Thương ” vẽ trên lụa mà anh vừa hoàn tất tuần trước : Một khuôn mặt mờ đi giữa đôi mắt biết nói và đôi môi tươi đỏ thì thầm.
Như một thói quen hay một “ quy định “ không thành văn, không giao ước - sáng chủ nhật nào sau khi đến Văn café cùng bạn bè, Nghiễm chạy xe thẳng đến đầu đường Trần Quý Cáp. Dường như Hoài Thương cũng đang chờ anh mỗi sáng chủ nhật trên chiếc bàn nhỏ với mái tóc còn ươn ướt , bộ áo quần mới mầu xanh da trời mỏng manh ( hay mầu vàng nhạt ) – khi anh vừa bước vào nhà.
- Em đang làm gì nhỉ? – Nghiễm hỏi, chờ đợi.
Lặng đi một phút – Hoài Thương giở tập vở ra : “ Em đang đọc lại những lời của anh tuần trước! “
Ngồi vào chiếc ghế vẫn thường ngồi với nàng – Nghiễm lấy bút từ túi áo khoát – viết dần những gì cần nói với nàng trong suốt một tuần lễ. Nghiễm chú ý thấy, bao giờ sau mỗi lần đọc được lời tâm tình của anh – Hoài Thương cũng nở một nụ cười trong ngần. Đôi mắt long lanh niềm xúc cảm tha thiết còn hơn vạn lời . Chỉ sau gần ba tháng, tập vở dày trăm trang đã hết, phải thay tập vở mới. Chủ nhật tuần trước, nhìn thấy tập vở mới – Nghiễm đã viết ngay trang đầu : “ Cho anh xin tập vở cũ, nhé? “ – “ Em cần nó hơn anh! “…( Hoài Thương có hai tập vở, một dành riêng cho Nghiễm và một chung cho mọi người thân, bạn bè.)
Nghiễm chợt nhìn xuống bàn chân Hoài Thương gác lên thanh ngang chiếc bàn : Đôi tất màu da và một phần ống chân trắng muốt. Nghiễm hơi cúi xuống, đưa tay sờ lên bàn chân nàng. Hoài Thương yên lặng. Anh ve vuốt khẻ khàng bàn chân và phần da thịt phía trên – nhận ra chiếc tất đã rách lòi ngón chân cái nhỏ nhắn. Anh nắm chặt ngón chân cái – giữ yên. Một thoáng, Hoài Thương rút bàn chân, đặt xuống giép.
Nghiễm ngước nhìn đôi mắt nàng lóng lánh : “ Anh làm em ngượng quá! “.
Đôi môi nàng khẻ rung động : “Anh thật tình thương em vậy sao? “
Hai đôi mắt nhìn nhau – sững sờ, im vằng.
Nghiễm mỉm cười : “ Anh muốn hôn lên bàn chân có chiếc tất rách này lắm, Hoài Thương ạ! “



Ngày 24 tháng 9 không nhằm ngày chủ nhật nhưng là ngày sinh nhật của Hoài Thương, Nghiễm quyết định ra phố sớm, để mua cho nàng một món quà – và ghé lại thăm nàng trước giờ đến xưởng vẽ.
Bước vào cửa hàng bán đồ kỷ niệm dọc phố Độc Lập – Nghiễm chợt nhớ đến ngón chân cái ở chiếc tất Hoài Thương bị rách. Anh cảm thấy rất thương đôi bàn chân bé nhỏ - đã sớm bước vào cuộc truân chuyên giữa tuổi đời đang xanh mộng. Rồi một mai đây những bước chân lạc lõng thơ ngây ấy sẽ đi về đâu? Con chim có tìm ra chiếc tổ ấm áp cho đời mình giữa giông bão chăng?
Nghiễm liếc ngó thoáng qua các món đồ bằng ốc, xa cừ, tre đan, gỗ lũa, nhựa , nhôm…bày biện đẹp mắt trong tủ kính – rồi bước ra. Cô nhân viên bán hàng quần áo modern liếc xéo anh với khuôn mặt đông cứng. Nghiễm bước vào cửa hàng bán áo quần.
- Bà có bán tất không? – Nghiễm vừa lơ đãng nhìn vào các ngăn tủ, vừa hỏi.
- Có đây – người đàn bà son phấn diễm lệ cười nói rất điệu nghệ - mở tủ đưa cho Nghiễm mấy đôi tất - loại sịn đấy, cậu à!
- Không – loại tất nữ ấy mà…
- Cậu mua tất nữ?
- Đúng rồi!
Bà đon đả kéo ra một lô các loại tất nữ dài, ngắn – đủ màu, đủ loại chất liệu. Nghiễm chọn một đôi, mở ra xem : “ Bà cho loại tất suông, không có ngón…”. Bà lại mở ngăn kéo tiếp theo – “ Bây giờ phái đẹp vẫn ưa dùng tất có ngón đấy cậu ơi ! “ – trao cho anh hộp tất không ngón, mầu vàng nhạt gần giống mầu da , bằng tơ nylong mịn, hiệu “ Sunlight” của Singapore. Nghiễm rất vui vì đã chọn được mầu tất ưng ý – thích hợp với mầu của Hoài Thương. Anh mua luôn một hộp 12 đôi.
Hoài Thương đang đứng ở cửa nhìn mông ra phố, trông thấy Nghiễm – đôi mắt bổng sáng lên : “ Anh đến chơi ” – đôi môi phân vân thì thấm : “ Sao hôm nay anh lại đến ? “. Nghiễm dựng xe lên thềm , cùng Hoài Thương vào nhà – cả hai đến ngồi vào chỗ của mình như mọi hôm. Trên bàn của Hoài Thương, quyển truyện “ Hội Hè Miên Man “ của Ernest Hemingway đang mở…
“ Anh đến thăm em mà có mang theo vật gì vậy, anh? “
“ Hôm nay là ngày sinh nhật em, tròn hai mươi - anh mang chút qùa tặng em mà! “
Nghiễm đặt nhẹ nhàng chiếc hộp có bao giấy hoa, và thắt dải đăng ten mầu xanh lên bàn, trước mặt nàng. Hoài Thương lặng nhìn – đôi mắt ngỡ ngàng, còn dôi môi sửng sốt. Nghiễm đăm đăm nhìn nàng, lòng bàng hoàng xao động. Trên gương mặt bình thản và dịu dàng kia như đang biến đổi từng giây phút ngập ngừng xen lẫn niềm hạnh phúc trào dâng cao độ.
“ Em cám ơn anh! Nhưng anh mở giúp em đi…”
“ Anh muốn em tự tay mở ra, em yêu! “
“ Em xin phép anh…”
Hoài Thương cầm chiếc hộp nhỏ hình chữ nhật xinh xắn đưa lên tầm mắt: Nàng khẻ khàng mở sợi dây đăng ten có đính chiếc nơ để lên bàn, lấy ngón tay có móng dài tháo từng đường băng keo dán – chiếc hộp đã được trở lại dáng vẻ cũ : Đó là một chiếc hộp bằng gỗ thông có vân mầu đà, được đánh bóng rất kỹ.
Nàng đặt chiếc hộp xuống – ngẩng lên nhìn Nghiễm, ánh mắt rực lên niềm xúc động xao xuyến lạ kỳ. Hoài Thương đặt hai bàn tay lên chiếc hộp giây lâu.
“ Em mở ra xem di - Hoài Thương! “
Nghiễm có cảm giác như nàng đang gắng giữ hơi thở thật đều khi nhìn thấy đôi môi tươi đỏ đang mím lại. Rồi mấp máy, rung lên nhè nhẹ - như muốn thốt lên điều gì đang nghèn nghẹn ở cổ.
Không chờ đợi được nữa, Nghiễm khẻ cầm lấy một bàn tay Hoài Thương – đưa lên môi hôn thật lâu. Anh như muốn hít thật sâu làn hương da thịt nàng như đã bao lần làm vậy mối lúc chia tay vào sáng chủ nhật.
Nàng rút tay lại – mở chiếc hộp ra . Hoài Thương chợt reo lên : “ Anh ơi ! Em cám ơn anh…”. Nghiễm đứng bật dậy – ào đến ôm chặt lấy nàng : “ Em yêu! Anh vô cùng hạnh phúc được nghe em nói…”

Quê nhà
Tháng 8 năm 2011
MANG VIÊN LONG

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2011

PHỐ NÚI, NHỮNG NGÀY MƯA Truyện Ngắn MANG VIÊN LONG



PHỐ NÚI,

NHỮNG NGÀY MƯA…




Truyện Ngắn
MANG VIÊN LONG





Tùng được dịp ghé thăm Phố Núi lần đầu vào mùa hè năm 1963 để thăm người chị kề vừa có chồng, lặn lội theo chồng lên núi. Từ ngày chị có chồng, xa nhà đã hai năm – không có ai lên đó thăm chị cả! Chị ra di, vẫn nghĩ là ra đi biền biệt. Tùng cũng mơ hồ cảm nhận được điều đó khi nhìn chị khóc nức nở, nghẹn ngào. Chị gặp anh – là sự một tình cờ, chưa hề biết mặt nhau lần nào trước đó. Và người anh cả đã coi chuyện gả chị có chồng là đỡ đi một gánh nặng – thì còn muốn đeo bám theo cái gánh nặng ấy làm gì nữa? Chỉ còn có Tùng – người em út, là không bao giờ quên được người chị tình nghĩa mà anh xem như một “ người mẹ nhỏ “ đã thương yêu, chia sẻ, chăm sóc anh từ thuở vừa lên tám tuổi.
Buổi chiều thi xong phần vấn đáp hai môn Anh – Pháp ban C tú tài toàn phần, Tùng biết chắc mình đã đỗ, nên viết thư ngay cho chị để báo tin vui. Một người dưới quê chuyên buôn bán trái cây ở miệt Pleiku - Kontum đã mang phong thư chỉ vỏn vẹn mấy câu của chị đến cho Tùng : “ Chị mừng lắm, em ơi! Gởi em tiền xe, mau lên chơi với chị vài hôm. Em nhé? “. Nét chữ nguệch ngoạc của chị khiến Tùng thương chị vô hạn. Chị đã phải nghỉ học từ năm lớp ba, để cúi xuống bên những công việc của một người đàn bà, hay của một người giúp việc nghèo khó. Dù được thụ hường phần lớn gia sản của cha mẹ để lại – nhưng người anh cả đã không làm được chút gì cho hai em như lời di chúc của cha mẹ để lại cho anh khi ra đi, ngoài nhà cửa và ruộng vườn.
Năm ấy - Phố Núi đang vào mùa mưa. Tùng chỉ được vài lần trùm áo mưa, đạp xe lòng vòng xuống phố, chui vào một quán café dọc đường nào đó – ngồi nhìn mưa giăng ngợp trời, rồi trở về. Phố nhỏ . Nhà cửa rải rác, sơ sài – ngoài mấy dãy phố chính ở trung tâm rap hát Diệp Kính là còn có sinh khí, sinh hoạt rộn ràng đôi chút giữa cảnh núi đồi cao nguyên thầm lặng u trầm mà thôi. Phố mưa buồn. Lòng Tùng cũng ngút buồn như phố. Trước ngày trở về, người anh rể đã mượn được chiếc Gobel chở Tùng vào thăm chơi ở miệt xưởng trà Bầu Cạn – một địa chỉ theo yêu cầu của Tùng. Chính tại nhà máy chế biến trà này người thông dịch là cha anh, đã gặp cô gái miền xuôi lên xin làm việc ở xưởng trà là mẹ anh – họ đã gặp nhau, và thương yêu. Tùng muốn được nhìn lại cái quang cảnh ngày xưa ấy – cho dầu, tất cả đã dần dà đổi thay. Nhưng trước mắt anh, núi vẫn còn. Những cánh rừng bạt ngàn vẫn còn. Nhất là con đường gập ghềnh, lầy lội từ thị xã dẫn vào Bàu Cạn vẫn còn. Như vẫn còn hằn in dấu chân đi về của cha mẹ anh thời vừa tròn hai mươi tuổi.
Ngày từ giã chị trở về xuôi để chuẩn bị thi vào đại học, Tùng chỉ nhớ hai hình ảnh mà cho đến mãi sau này – không bao giờ phai nhạt trong trí nhớ anh: Ngôi nhà tạm bợ của chị như nhỏ sụp xuống trong những cơn mưa đen kịt đêm ngày bên góc đồi vắng, và gương mặt chị bao giờ cũng lạnh lẽo, trơ vơ như những cánh rừng u tối phía sau nhà.
Năm 65, Tùng lại được lên Phố Núi lần 2 : Sau những ngày tưng bừng của tháng 11 năm 63, các năm tiếp đó là những tháng ngày biến động liên tục. Chính trường xao động. Các đảng phái, bè nhóm lại nổi lên khiến Saigon và những thành phố lớn chộn rộn với nhiều tin tức đảo chánh, thay thế, chuyễn đổi quyền lực. Đã có một vài tờ báo dưa tin về những cuộc âm mưu đảo chánh của các nhóm quân nhân và đảng phái bị phá vỡ. Sau cùng, là một vài cuộc biểu tình, xuống đường lẻ tẻ ở Saigon và Huế để ủng hộ hay đả đảo, đã làm cho không khí càng thêm ngột ngạt. Tùng và 3 người bạn cùng khóa ở trường sư phạm Qui Nhơn đang lẩn quẩn trong cái thị xã như vừa được hâm nóng vì những tin đồn, khi trường bị tạm thời cho sinh viên nghỉ học, thì Tâm từ Pleiku bất ngờ ào xuống Qui Nhơn thăm Yến. Yến là bạn gái của Nguyên và Quế ở văn khoa Huế đã cùng rủ nhau thi vào trường sư phạm, là người yêu của Tâm – cũng là một người bạn thân thiết của nhau thời trung học đang bị động viên đồn trú ở vùng núi rừng Pleiku.
Buổi sáng ở quán café Tùng – Tâm đề nghị :
- Tao “ dù “ về thăm, không ở nán lại lâu được. nhân lúc trường còn nghỉ, cả bọn lên Phố Núi chơi với tao vài hôm còn thú vị hơn nhé?
Ngay trưa hôm đó, bọn Tùng cùng lên xe đò với Tâm đi Pleiku. Bốn giờ chiều xe đã tấp vào bến. Ngày hôm sau Tâm phải về đơn vị, cả bọn đội mưa đến thăm gia đình người chị của Tùng, rồi đi lông bông các ngã phố chợ cho hết buổi chờ Tâm mượn xe jeep về để đi Kontum chơi. Đang nhởn nhơ giữa đường, cả bọn bị chiếc xe jeep màu xanh – trắng ép sát, dừng lại – kiểm tra giấy tờ. Dù đã có đủ mọi thứ giấy hộ mệnh, bọn Tùng cũng “ bị mời “ về đồn cảnh sát thị xã. Sau khi xét hỏi lý do chuyến đi Pleiku riêng lẻ từng người – vị cảnh sát trưởng ra lệnh : “ Chúng tôi buộc phải “ trục xuất “ các anh chị về lại Qui Nhơn ngay trưa hôm nay, nếu các anh chị không muốn ở lại trong nhà tạm giam !”
Lần thứ 3 Tùng lên Phố Núi cách xa lần bị đẩy lên xe quay về lại Qui Nhơn đến 24 năm. Năm ấy, Tùng ra đi như một sự trốn chạy : Vừa nhận đkg ngủ sao
ược giấy mời của Tòa án phải có mặt vào sáng hôm sau, thì ngay chiều ấy Tùng đã vội vàng gom ít áo quần ra đường đón xe . Anh chỉ kịp nói với Thúy – vợ anh, một câu: “ Tôi không thể có mặt ở nơi ô nhục đó! Không bao giờ! “.
Đến Phố Núi, cũng là lúc cơn mưa đổ ập xuống thị xã mù trời. Phố xá buồn hiu. Mưa. Tất cả như co ro, thu nhỏ, nhạt nhòa trong màn mưa dày. Không có gì phải vội, Tùng chui vào một quán nhỏ nằm cạnh góc bến xe, gọi ly café đen – nhâm nhi, phì phà khói thuốc như kẻ nhàn du lửng lơ bên lề đời sống. Nguyên đã không còn ở Phố Núi sau hơn 10 năm làm hiệu trưởng trường nam tiểu học ở đây mà chạy về Núi Thành. Tâm cũng đã chết trước ngày Yến ra trường vài tháng rồi. Còn Quế thì đang ở cách xa anh ngàn dặm tận bên kia bờ đại dương. Chỉ còn lại người chị khốn khó và ba đứa con mồ côi nơi phố núi trập trùng đồi dốc này thôi…




Năm ngoái, Quế về nước – ghé lại thămTùng đột ngột như lần anh ra đi cách nay gần 30 năm. Quế đã bỏ ra tám năm đi học – tốt nghiệp đại học ngành viễn thông thông tin, hiện đang làm việc cho hãng thông tấn truyền hình MEIS. Sau một ngày ở lại chơi bên Tùng, Quế đề nghị Tùng cùng đi Phố Núi để thăm lại những người bạn cũ của Tâm và Nguyên. Thật ra, Tùng dư biết Quế vẫn còn yêu Phố Núi với bóng hình lãng đãng của Đoan ngày nào mà anh đã có lần bảo rằng, Trung - người bạn đồng hương lớn hơn anh hai tuổi – đã viết nên bốn đoạn thơ hào sảng và trữ tình, rồi chép tay gởi tặng anh một bản như nói hộ anh bao nỗi niềm thương nhớ và biết ơn mà anh chưa kịp nói hết được với Phố Núi và Đoan. Quế vẫn thường nghêu ngao bài hát được Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ ấy khi được thu vào băng dĩa, trình diễn lần đầu – như một tình khúc của đời mình: “ …xin cám ơn thành phố có em, xin cám ơn một mái tóc mềm. mai xa lắc bên đồi biên giới, còn một chút gì để nhớ để thương…” – quả là Phạm Duy đã chắp cánh cho hồn thơ bay xa, vang xa đến tận bây giờ cho dù Trung đã không bao giờ có dịp trở lại thăm Phố Núi thêm lần nào nữa kể từ năm 81…
Xe Nguyệt Linh vào bến đúng 11 giờ - trời đang hửng nắng. Mây lãng đãng trên Phố Núi, có vùng mây sà thấp xuống – nhưng không có dấu hiệu cho một cơn mưa lớn. Tùng mở máy gọi taxi . Chưa hút hết điếu thuốc, xe đã chạy đến ngay điểm hẹn phía trước khách sạn Hoàng Anh. Xe vòng lên phố ngày xưa gọi là Hoàng Diệu. Quế vố vào vai Tùng : “ Không biết nàng có còn ở nơi căn nhà cũ không? “ – “ Cậu biết được nhà cũ, thì dần dần sẽ tìm ra nhà mới thôi mà! “ – Tùng liếc nhìn những dãy phố mới như đang vươn mình dưới ánh nắng hiếm hoi tươi tắn, những ngôi nhà nhiều tầng lộng lẫy như sơn nữ đỏm dáng, những công trình đang thi công ngổn ngang sắt đá – nghĩ, Phố Núi đã đổi thay ngờm ngợp so với lần đến thứ ba của anh vào năm 89. Cười thầm : “ Núi rừng thay đổi đến vậy, con người làm sao mà không thay đổi được đây? “.
Cô bé chủ gian hàng bán đồ gỗ mỹ nghệ phía trước mời Tùng và Quế đi vào nhà sau – cô Đoan đang ở đó. Quế có vẻ tin tưởng, một chút xao xuyến trên nét mặt như rung động - nắm tay Tùng kéo đi. Quế vừa đẩy cánh cửa kính bước vào phòng khách thì Đoan đã từ phòng riêng kế bên bước ra.
- Hình như… là anh Quế phải không? – Đoan thốt lên.
Không trả lời nàng – Quế ngắm nhìn Đoan giây lâu – cười:
- Em vẫn không có gì khác…Đoan ạ!
- Em khác xưa lắm chứ? Già và khổ lắm rồi, mà anh? - Đoan vừa cười, vừa liếc nhìn Tùng – Đã hơn ba mươi năm rồi còn gì ? Phố Núi có biết bao đổi thay…
Đoan đon đả mời cả hai ngồi vào bàn, vội bước ra sau pha trà. Quế có dịp nhìn kỹ gian phòng, anh để ý chiếc bàn thờ đặt sát vách tường giữa nhà với hai tấm ảnh . Quế bước lại – nhìn. Anh nhận ra cả cha và mẹ Đoan đều đã qua đời. Người cha trí thức,và rất nghệ sĩ ấy đã nhiều lần cùng anh trò chuyện về nhân tình thế sự, nay đã yên lặng đang mở to đôi mắt như nhìn anh: Nhân tình vẫn bạc bẽo. Còn thế sự vẫn nhiễu nhương. Cho mãi đến bao giờ?
Thấy Quế đang thắp hương cho bàn thờ cha mẹ mình – Đoan đứng lặng bên cạnh. Nàng nghĩ thầm : “ Nếu Quế không bị động viên vào mùa hè năm ấy – thì cuộc đời nàng đã đổi khác rồi - đâu chịu cảnh oan nghiệt đau buồn như ngày nay? “,
Với giọng thì thầm trong trẻo, ngập ngừng, và chậm rải – Đoan đã kể lại cho Quế nghe quãng đời lao đao của gia đình nàng sau 75 và nỗi phiền muộn của nàng sau khi có một đứa con với Hải , rồi phải ra tòa chia tay ngay sau đó hai năm. Hơn hai mươi năm một mình nuôi con – sống qua ngày với nghề dạy học, hiện đang chờ nhận quyết định nghỉ hưu…Đoan đã kể, có lúc say sưa - như muốn trút đi nỗi buồn đã tích tụ trong nàng bao năm mà chưa được chia sẻ cùng ai.
Tùng nâng tách trà lên, khẻ hớp một ngum nhỏ - giọng hồn nhiên: “ Hơi sức nào mà buồn lâu, em? “ – anh chợt cười ; “ Nếu buồn vậy thì anh và Quế đây cũng đã chết từ khuya rồi! “. Quế vỗ vào chân bạn – cười thoải mái : “ Cậu nói chính xác! Ở lứa tuổi bọn mình, thì không nên buồn chuyện gì nữa…Hãy sống vui với hiện tại hạnh phúc hôm nay, Đoan ạ! ”
Quế nhìn Đoan – giọng đắn đo:
- Em chịu làm hướng dẫn viên cho bọn anh ở thăm Phố Núi vài hôm, được không?
- Hân hạnh lắm – nàng cười, có lẽ ông trời thương các anh hay sao , nên hôm nay tự nhiên ngớt mưa, lại có chút nắng ấm chứ mấy ngày qua rả rích suốt ngày đêm, buồn lắm anh ạ!
- Không phải ông trời thương riêng bọn anh đâu – Quế nhìn Đoan đắm đuối, ông trời rất thương yêu em nữa đấy!
- Ông trời cũng…khéo sinh cái miệng của anh nữa mà!
Cả ba người cùng cười như thời thơ trẻ.
Tùng xin phép cả hai phải đến thăm người chị ở ngoài khu chợ Trà Bá – hẹn sẽ quay trở lại. Quế và Đoan đưa Tùng ra ngoài đường đón taxi. Xe vừa chạy – Quế chợt cầm lấy bàn tay Đoan : “ Chúng mình cùng đi uống với nhau ly café-hội-ngộ đi, em? Thời gian bây giờ với anh thật quý hơn tất cả… “.
Đoan dắt chiếc Sẻrius xuống lòng đường, quay lại – cười: “ Anh muốn ngồi ở đâu, thăm nơi nào tùy ý…” – “ Anh quên hết đường đi rồi! Em chở giúp anh đi! Tùy em cho anh đi đâu cũng tốt cả miễn là có em bên cạnh… “.
Trước hết, Đoan chở Quế lướt qua một vòng Phô Núi – những con đường mới quy hoạch, những công trình đang xây dựng,và các dinh thự bề thế của các đại gia mọc lên sau 90. Qua từng chặng đường, nàng nhắc nhớ nbững nơi chốn mà cả hai đã từng gần gũi, gắn bó - bằng giọng nói mơ hồ, xa vắng, có chút ngậm ngùi. Quế ngồi sau, nhìn theo từng đổi thay không kịp nhớ hết, cảm thấy mình thật sự lạc lõng giữa bộn bề đổi thay của đời sống…
Đoan quẹo vào con đường dốc nhỏ, ghé khu công viên Diên Hồng. Hai người đếm bước dần vào các dãy nhà sàn phía trong cầu treo – chọn một chiếc bàn nơi căn nhà sàn nổi trên mặt hồ tĩnh lặng, thoáng mát. Gọi hai ly café đen. Đoan lại tiếp tục giới thiệu về khu công viên, về ngôi nhà sàn nằm trên khu đồi cao kia được chọn làm nơi bắn pháo bông vào đêm giao thừa hằng năm; trong lúc Quế ngắm nhìn rừng thông cao vút dọc theo những con đường dốc, tạo nên quang cảnh thật êm đềm, yên vắng, thơ mộng rất riêng của Phố Núi cao nguyên…
Trong từng căn nhà gỗ ẩn mình dưới rặng thông, hay rừng cây rợp bóng mát dọc ven hồ là những cặp tình nhân, những cặp vợ chồng với con nhỏ, những du khách phương xa ghé lại. Bên kia bờ hồ, những túp lều nổi lục giác nho nhỏ là chỗ cho khách lai rai. Quế nói với Đoan về sự ưu đãi của thiên nhiên đã dành cho Phố Núi, nhưng nếu con người không biết giữ gìn, chăm sóc - thì chẳng bao lâu – những sự ưu đãi ấy không còn, sẽ làm cho Phố Núi tàn tạ. Cái u trầm, tĩnh lặng của Phố Núi có phần quyến rủ hơn ở Đà lạt rất nhiều.
Đoan cảm thấy hạnh phúc được uống ly café cùng Quế sau bao năm mong chờ tưởng là vô vọng. Những điều bất ngờ mầu nhiệm của đời sống luôn làm cho đời sống tươi trẻ, và lòng người được vỗ về biết bao. Cả hai rời khu công viên, Đoan lại chở Quế vòng ra phố. Nàng quay lại: “ Em đưa anh đến “ quán phở hai tô “ ngày xưa nhé? “. Quế khẻ ôm vào lưng nàng : “ Tuyệt vời rồi! Phở truyền thống của Phố Núi mà em? À, có phải quán Ngọc Sơn ở đường Hoàng Diệu mà chúng ta có lần ngồi với nhau sau khi ở Biển Hồ về không? Anh rất nhớ… “ – “ Anh có trí nhớ tốt lắm! Hai quán Mỹ Tâm và Ngọc Sơn vẫn còn, anh ạ! “. Đoan cười : “ Nhưng anh còn nhớ…hai cách ăn khô và nước nữa không? “ – Quế cười thoải mái ; “ Cứ nhìn em…ăn cách nào, thì anh ăn y như vậy mà! Cách nào rổi cũng hết hai tô thôi! Đúng không? “
Xe tiếp tục trên đường đi về ngả Biển Hồ. Trời mưa nhẹ hạt. Con đường ngày xưa không còn chút dấu vết. Quế nhớ lại lần cùng Đoan ngồi ở bờ hồ suốt ngày, trước lúc anh phải vào Saigon trình diện, với mấy ổ bánh mì, hai hộp thịt ba lát, túi kẹo Nouga và hai chai nước khoáng Vĩnh Hảo. Biển Hồ ngày ấy hoang vắng, quạnh hiu trong cơn sốt chiến tranh luôn ầm ì tiếng súng và bom mìn vang dội đâu đó trong từng cánh rừng phía xa. Anh và Đoan như hai kẻ lạc loài giữa hận thù, là những đám mây lơ lửng trôi dạt lạnh lẽo trước cơn gió dữ của sự phân tranh. Đường xuống hố hôm nay đang có đông khách tham quan. Quế cầm lấy tay Đoan cùng lên những bậc cấp để đến căn nhà lục giác trên cao. Mưa nhẹ. Nhưng gió thổi dạt dào. Se lạnh. Quế cảm thấy hơi ấm của bàn tay dịu mềm Đoan đã truyền cho mình nỗi ấm áp nồng nàn của quê nhà sau bao năm xa cách tưởng không bao giờ có thể tìm lại.
Về lại trung tâm thành phố đã hơn bốn giờ chiều. Đoan cho biết, ngày mai – nếu trời nắng ấm – sẽ đưa Quế lên thăm khu du lịch Về Nguồn cách xa thành phố hơn 5 cây số, sẽ tha hồ… Nàng rẽ vào đường Hai Bà Trưng, dừng lại ở quán cơm gà Hải Nam, vội vã vào mua hai hộp cơm gà đặc biệt. Giơ hai hộp cơm lên trước mặt Quế - Đoan cười : “ Chúng mình vào quán café ăn cơm, rồi nhâm nhi café đến tối, anh nhé? Ngày mai, em sẽ đưa anh đến thăm ngôi chùa kỳ vĩ nhất ở Phố Núi – chùa Minh Thành, đã khởi công xây dựng trên ngọn đồi rợp bóng mát, suối, và hồ thiên nhiên bao quanh thật thơ mộng, tĩnh lặng – đã gần năm năm ngày đêm kiến tạo rồi mà chưa hoàn chỉnh, có lẽ cũng phải mất mười năm anh ạ! “. Đoan vừa lái xe, vừa trò chuyện hồn nhiên với Quế như đôi bạn thuở nào.
Đoan dừng xe ở dốc quẹo lên đường Lê Quí Đôn, trước mặt là quán café Hạ Vàng trông sang trọng, rực rõ với những chùm đèn mầu lấp lánh trên các tàng lá cây cảnh mỹ thuật.
- Anh thích vào Hạ Vàng hay Đen?
- Quán Đen ở đâu?
- Sát bên cạnh đây thôi…
- Nhưng điều quan trọng không phải là anh thích, mà em thích ngồi ở đâu với anh?
- Em quen ngồi ở Đen anh à! – Đoan khẻ nói, mỉm cười – bọn bạn học cũ của em ngày xưa cũng vẫn thường rủ nhau đến Đen tán gẫu đủ thứ chuyện quá khứ hiện tại vị lai cho vui vậy mà!
Quế bước theo Đoan vào sâu trong quán, lên các bậc cấp bằng gỗ, tre – như chiếc cầu nổi được thiết kế xinh xắn – như một người xa lạ. Đoan tìm một chiếc bàn vuông nhỏ chỉ có hai chiếc ghế gỗ sát bên cửa sổ ngó ra vườn cây. Nàng đặt hai hộp cơm lên mặt bàn kính – cười : “ Anh đã đói bụng chưa? “
- Em làm tài xế và hướng dẫn viên phải đói hơn anh chứ?
- Vậy thì chúng ta cùng ăn cho nóng, anh nhé?
- Anh rất hạnh phúc được ăn bữa cơm sum họp với em. Đoan ạ! – Quế nhìn đứng lên gương mặt hơi gầy, xanh của Đoan – lòng cảm thấy bùi ngùi – Anh không ngờ chuyến về này lại được hạnh phúc đến vậy…Ở bên đó, anh…
- Anh thế nào, hở anh?
- Anh chỉ ngồi ăn vội vã một mình cho qua bữa, rồi bị cuốn vào công việc phải cập nhật từng giờ…
Cậu bé trai mang khay trà và café ra đặt trên bàn – yên lặng quay đi. Bên ngoài mưa và gió rào rào, hình như mưa đã bắt đầu nặng hạt. Ánh sáng lờ mờ hắt qua những khung cửa sổ khiến căn nhà sàn như rộng thêm và lạnh lẽo. Khu nhà phía dưới đã mở đèn sáng mầu nhạt. rải rác từng bàn khách đang ngồi thầm lặng bên tách café. Khóm trúc lòa xòa vươn lên tầng trên lay lắt một cách êm ái, thơ mộng. Quế nhìn ra sân sau - một khoẳng sân trống, một vùng cỏ cây lặng lẽ dưới mưa – chợt nhận ra, buổi chiều Phố Núi được ngồi bên Đoan ở đây quả thật là một diễm phúc bất ngờ không bao giờ quên dành cho cuộc đời tha hương của anh. Theo lời Đoan, Phố Núi có hơn hai trăm quán café – trong hai trăm quán ấy, giờ này – chắc có nhiều người yêu nhau được nhận bao điều an ủi và ấm áp như mình – trong lúc ngoài trời, mưa và gió vẫn thản nhiên rào rạt, cuồng nộ như không bao giờ dứt...


Phố Núi, tháng 8 năm 2007
MANG VIÊN LONG