MANG VIÊN LONG VÀ TÔI, VĂN KỲ THINH…
TRỊNH BỬU HOÀI
.jpg)
Mang Viên Long (trái) Nhà thơ Trịnh Bửu Hoài (phải)
Cuối năm 1970,
khi còn đang học trung học ở Long Xuyên, tôi nhận được tập truyện Mùa Thu Trống Trải do anh Mang Viên Long
gởi tặng. Đây là tập truyện thứ hai của anh, sau Trên Đỉnh Sa Mù, cả hai tập đều do Nhà xuất bản Nhị Hồng in ấn. Nhà
xuất bản nầy do Mang Viên Long và Hoàng Đình Huy Quan chủ xướng. Và cái tên Nhị
Hồng cũng thú vị lắm, Hoàng Đình Huy Quan nói với tôi cả hai anh đều có người
yêu tên Hồng.
Tập Mùa Thu Trống Trải in khổ 12 x 18,5 cm,
xinh xắn dễ thương, chỉ dầy 114 trang với 6 truyện ngắn nhưng in chữ nhỏ, cở
véro 10, tôi đọc vèo một buổi là hết. Đây không phải là lần đầu tiên tôi đọc
truyện Mang Viên Long, mà trước đó tôi đã đọc anh trên tạp chí Văn, Bách Khoa,
Vấn Đề… Và tôi rất thích văn phong của anh, gặp truyện của anh là tôi đọc. Anh
là một trong vài người viết trẻ đáng đọc thời bấy giờ. Tôi rất vui khi được anh
gởi tặng sách, dù chỉ biết tên nhau trên báo.
Từ đó chúng tôi
coi như đã quen nhau, cho tới 40 năm sau, tôi và anh mới có dịp gặp mặt nhau.
Tôi nghĩ mà thấm thía câu người xưa đã nói: “Văn kỳ thinh bất kiến kỳ hình”…
Nhưng điều làm
tôi nhớ nhất là trong một ngày mưa gió cuối năm 1971 ở giữa núi rừng Thất Sơn,
trong cơn khát sách báo văn chương, tôi vô cùng bất ngờ khi nhận được tập
truyện kế tiếp của anh gởi từ Tuy Hòa vào, tập Phố Người, Nhà xuất bản Đồ Bàn ấn hành. Lúc nầy tôi biết Nhị Hồng
đã rã, Hoàng Đình Huy Quan thành lập Nhà xuất bản Đồng Dao, còn Mang Viên Long
thì chủ trương Đồ Bàn. Phố Người cũng
chỉ 6 truyện ngắn, cũng chữ véro 10, nhưng với khổ 13 x 19 và in trên giấy màu
xanh nhạt rất đẹp, không biết đây có phải là bản đặc biệt?
Tôi như vớ phải
manh chiếu trong cơn buồn ngủ, đọc ngấu nghiến Phố Người mà lòng thầm
cảm ơn anh còn nhớ đến tôi và chịu khó gởi sách tới tận cõi biên thùy heo hút
nầy. Thời gian sống như kiếp lưu đày ở đây, tôi không thể tìm được một tờ báo
chớ đừng nói là sách. Cho nên, nhận được một cuốn sách của bạn bè nó quí biết
dường nào. Và những nhân vật trong Phố Người đã sống cùng tôi một giai đoạn
cuộc đời. Như Khắp của Một cõi đời riêng
cùng tâm trạng tuổi trẻ trong chiến tranh, phải ra đi và đau đáu một nỗi quay
về: “Khắp cũng mong được trở về, sống lại
những chuỗi ngày phẳng lặng êm ả cũ để rũ sạch hết mọi vướng bận chằng chịt có
hồi đã làm anh quẫn trí, điên cuồng. Bây giờ thì Khắp đã tự tay mở rộng đôi
cánh cửa của một vùng nắng gió hoa lá kỉ niệm như cõi lòng mình mở rộng, đợi
chờ…”. Cuối cùng, mình cũng mong được lạc quan như Khắp: “Tự dưng Khắp bỗng
thấy như trong cõi đời riêng mình, một mặt trời thân yêu sắp mọc…”. Những
con người rất đẹp, nhân hậu và thủy chung nhưng trong chiến tranh, họ có thể
nào chung thủy khi một lần ra đi không dám hẹn ngày trở lại, một lần trở về
cũng có thể là sau cuối. Một Cửu trong Nấm
mồ còn lại, đã tới nơi: “Những con
đường lẩn khuất dưới những tàn cây, ẩn hiện phai mờ trong cái vắng vẻ, nghèo
khổ của một quận lỵ miền núi ít dấu chân người lui tới”, thì trái tim của
anh nên để lại nơi nầy hay mang về cho người con gái quê xưa. Nhưng thực ra,
anh không dám thực lòng yêu một ai, không để một ai vì mình. Tết nầy anh về quê
chỉ vì những nấm mồ. “Giá không có những
nấm mồ kia, thì miền đất anh trở về sẽ vô cùng trống trải, sẽ vô cùng hoang
mang, sẽ vô cùng tủi thân cho anh biết chừng nào. Nấm mồ còn lại cho anh tuy là
chứng tích của bao nỗi hải hùng đứt ruột nhưng vẫn là nơi còn lại cho anh nghĩ
tới để những giọt nước mắt được vỗ về. Những người còn sống (ngoại trừ người
chị với đôi mắt còn trông chờ ở ông Trời), Cửu không tìm thấy chút nào gần gũi
níu giữ gót chân anh, và buồn hơn là anh cũng không tìm thấy nguồn an ủi nào
cho những giọt nước mắt…”. Hay là tôi trong Phố người, từ rừng sâu trở về
thành thị gặp gỡ bạn bè và mỗi người một tính cách, một số phận khác nhau. Truyện
của anh như tấm gương soi vào thân phận, tình yêu tuổi trẻ, khi “…mọi bả xa hoa sung túc đều làm thui chột
hết mọi niềm tin, phấn đấu nơi con người…”. Khi đọc Phố người, tôi hiểu
thêm cuộc đời bất hạnh của anh, và từ hoàn cảnh nầy, anh đã đi lên bằng đam mê
và nghị lực. Anh “đã sống qua một thời
tuổi nhỏ vô vàn đau xót: Cha mất khi hãy còn là một bào thai non yếu quằn quại
trong bụng Mẹ. Tám năm sau, một giờ sáng ngày 27 tháng 10 (âm lịch) giữa mùa
mưa bão mù trời thời kháng chiến người Mẹ đã thở hơi cuối cùng vì bệnh lao bởi
đã khổ nhọc và cô độc trong nửa đời góa bụa bị lường gạt. Từ đó, sống quấn quít
nghèo khó bên anh và chị. Sống ngơ ngác lạc lõng giữa bà con họ hàng. Lớn lên
như một thân cây rừng cô tịch…” (trích Phố
người). Anh dạy học và viết văn. Những trang viết của anh đầy ắp tình người
và khát vọng yêu thương.
Sau ngày hòa
bình, tôi bặt tin anh. Đôi lần đến Tuy Hòa, tôi được gặp lại và đối ẩm với anh
em văn nghệ cũ như Hoàng Đình Huy Quan, Khánh Linh, Trần Huiền Ân, Nguyễn Lệ
Uyên, tôi có ý tìm anh nhưng các bạn nói anh ở Bình Định. Khi ghé Qui Nhơn, tôi
mới được biết anh ở Bình Định nhưng là thị trấn Bình Định, thuộc huyện An Nhơn.
Tôi không nhớ ai cho tôi địa chỉ nhà anh và từ đó tôi liên lạc thư từ với anh.
Anh em mừng như được tái ngộ sau thời gian dài xa cách. Có in được gì chúng tôi
đều gởi cho nhau đọc. Lúc chưa có điều kiện xuất bản, anh vẫn viết đều, rồi
đánh máy vi-tính, đóng thành tập rất trang trọng gởi vào tặng tôi “để làm kỷ niệm”, như tập “Vầng trăng
khuyết”, dầy 120 trang khổ 14,5x20,5 với 10 truyện ngắn. Sau nầy, tác phẩm
của anh được nhà xuất bản in ấn và phát hành. Tôi rất mừng cho những đứa con
tâm huyết của anh được chào đời có tên tuổi nhãn hiệu đàng hoàng với hàng nghìn
bản chớ không chỉ là vài ba bản gởi bạn bè kỉ niệm và đọc chơi. Dù có trong tay
những cuốn sách còn nóng mực in, nhưng tôi vẫn giữ những quyển sách do anh tự
tay đóng cuốn và dán bìa như một kỉ vật trong tủ sách của mình. Khi nhìn lại
những quyển sách ấy, tôi hiểu được nỗi lòng của người cầm viết, sáng tác vì nghiệp
dĩ, vì đam mê; dù biết rằng viết ra chưa biết in ở đâu, có nơi nào xuất bản
không, nhưng vẫn viết, như có lần anh tâm sự: Chúng ta đam mê trong chuyện viết lách chẳng qua cũng là… một cái
“nghiệp”! Đã là nghiệp – là phải thọ khổ đến 90%. Sau đó, phần ít ỏi còn lại,
là một sự thư giãn, giải trí để còn có thể… tiếp tục sống. Ở đời, có nhiều trò
chơi – chúng ta tự chọn cho mình cái trò chơi “chữ nghĩa” – quả thật là nhiêu
khê (và ít nhiều nguy hiểm/hy sinh). Đành vậy – biết sao? (trích thư riêng ngày
20-11-2007).
Có lúc anh gởi
vào tặng tôi một bài thơ, tôi biết anh có làm thơ nhưng rất ít, chỉ in một hai
bài ở Bách Khoa vào đầu thập niên 1970, sau đó không thấy nữa. Bây giờ anh làm
thơ, có lẽ đang có một chút tâm trạng, một chút cảm xúc mà chỉ có thơ mới gởi
gắm được. Tôi đọc và đồng cảm với anh: Ngó
lại mình/Những năm tháng lang thang/Những năm tháng dài/Trên từng mái nhà rêu
vắng/Gặm nhấm nỗi buồn/Trong từng vũng tối/Thênh thang… (Thơ khai bút đầu
năm – mùng 7 tết Quí Mùi).
Một lần, khoảng đầu
thập niên 1990, tôi nhận được bức ảnh chân dung anh mặc bộ quần áo nhật bình nâu
vạt mẻ mà anh nói là Ngô Phan Lưu đã lên chùa Phi Lai thăm anh và chụp cho. Anh
đã trở thành tu sĩ rồi sao? Đây là thời gian anh thường lên chùa, ít có ở nhà,
cần việc gì tôi gọi điện gặp con anh làm trung gian giữa hai người. Anh ký thêm
tên Huệ Thành trên một số bài viết hoặc thơ ( đăng trên bán nguyệt san Giác
Ngộ) với nơi sáng tác ghi là “Lập Tâm
tịnh thất” - có lẽ là pháp danh; từ giai đoạn nầy, một giai đoạn cần thiết
cho đời người qua lăng kính Phật giáo soi lại mình, mở ra một triết lý sống khi chân, thiện, mỹ đang đơm hoa kết trái
trong tâm hồn. Đó cũng là cơ duyên để anh mở cửa kho tàng nhân bản trong trái
tim mình cho các tác phẩm thâm thúy sau nầy. Sau đó, trong một lá thư, anh gởi
tặng tôi bốn câu thơ lục bát, chỉ vỏn vẹn 28 chữ, nhưng đã khái quát cuộc sống
của anh lúc bấy giờ: Nguyện cầu xin được
vô tâm/Mà sao hạt vẫn nẩy mầm thương yêu/Bâng khuâng một ráng mây chiều/Buồn
tênh một mảnh trăng xiêu cuối mùa (tháng 8-1998).
Đến năm 2003,
tác phẩm thứ sáu của anh (sau hơn 20 năm không có tác phẩm xuất bản) là một tập
truyện ngắn có tựa đề đẹp như một bức tranh: Biển của hai người, được xuất bản trở lại sau ngày hòa bình. Có thể
nói đây là niềm vui của anh và bạn bè sau 31 năm gián đoạn. Và đây cũng là bàn
đạp để anh vượt lên, thể hiện tài năng và sự sung sức của mình. Trong vòng mười
năm, anh cho ra mắt đọc giả mười hai tập sách, trong đó có 10 tập truyện và 2
tập tiểu luận, tạp bút. Tổng số tác phẩm của anh hiện nay đã lên đến con số 17.
Nghe đâu, anh còn hai tập truyện ngắn và một tập tiểu luận tạp bút (tập 3) trong
dạng bản thảo và… chờ in.
Hai tập tiểu
luận và tạp bút Như những giọt sương
cọng lại dày gần 1.000 trang với nội dung phong phú và đa dạng, gồm các bài
viết về đạo Phật, về văn học nghệ thuật, về đời sống. Nhận định sâu sắc, cảm
xúc dồi dào, trải nghiệm chân tình… là những ưu điểm để anh chinh phục người
đọc: Buồn thay, ai ai cũng có đôi tai (và
khối óc), nhưng qua bao thế kỷ trầm luân, khổ đau vẫn “làm lơ” để tạo nhiều
điều ác, nhiều khổ đau cho con người trên khắp hành tinh, chỉ vì “cái lợi nhỏ
và vui nhỏ” giả tạm của riêng bản thân mình (Vài suy nghĩ về một câu kinh
Pháp Cú). Những điều đơn giản ấy không phải ai cũng nghĩ ra. Trong phần Văn học nghệ thuật và tôi anh viết về
bạn bè văn nghệ và những tác phẩm mà anh thích. Từ những người đã mất như
Nguyễn Nho Nhượn, Yến Lan, Quách Tấn, Trần Phong Giao, Y Uyên, Võ Hồng, Trịnh
Công Sơn, Lê Ngộ Châu, Nguyễn Phan Thịnh, Nguyễn Mộng Giác, Trương Thìn, Huỳnh
Kim Bửu… đến các anh chị em vẫn còn sống và viết ở trong, ngoài nước như Tôn Nữ
Hỷ Khương, Trần Huiền Ân, Đặng Tấn Tới, Phạm Cao Hoàng, Lê Văn Trung, Nguyễn
Như Mây, Trần Vạn Giã, Hoàng Lộc, Đỗ Hồng Ngọc, Cao Thoại Châu, Chu Trầm Nguyên
Minh, Lữ Kiều, Linh Phương, Nguyên Cẩn, Thích Thiện Đạo, Thích Giác Tâm, Tống
Anh Nghị, Lê Phương Châu, Trần Minh Nguyệt, Nguyễn An Đình… Những trang viết
của anh đầy ắp kỉ niệm và tình cảm như rót ra tận đáy lòng. Quá khứ sống lại
với từng dòng cảm xúc qua những câu chữ giản dị, chân thành nhưng bàng bạc một
màu trăng sáng mãi hồn nhau. Anh không chỉ viết về bạn, viết cho bạn mình mà còn
viết cho đời những trang hồi ức thủy chung rất đẹp. Một mình đau xót cảm nhận thêm một sự mất mát lớn trong đời. Cuộc vô
thường của trời đất… Hôm nay, gần đến ngày giỗ thứ năm của Anh, nơi chốn quê
nhà quạnh hiu nầy, tôi lại nhớ anh: “Một nhà báo chân chính, tài năng, và vô
cùng độ lượng đã suốt đời hy sinh cho sự nghiệp văn học” (Nhân kỷ niệm 5
năm ngày mất nhà báo và người sáng lập tạp chí Bách Khoa Lê Ngộ Châu).
Quê hương miền
Trung nắng gió và những vùng đất anh đã đi qua, đã sống; trong đó có những
việc, những người… để lại trong lòng anh những dấu ấn không phai, và bây giờ là
sống cùng anh trên những trang viết mặn nồng tình nghĩa. Tôi thật sự không có “vợ” ở Phú Yên, nhưng lại có “nợ” với Phú Yên
nhiều lắm. Sâu đậm và thiết tha lắm! Đó là món nợ với “Cuộc đất và tình người”
Phú Yên. Bởi vậy, lâu lắm là một hai năm tôi phải trở về Phú Yên. Có năm đến
hai lần ghé lại. Có lần chỉ kịp nhìn mặt con phố, gọi điện đến thăm vài người
bạn, rồi ra đi. Có lần lây lất với Tuy Hòa cả tháng, hai ba tháng… Đó chẳng
phải là “nợ” – duyên nợ, thì gọi là gì? Cái “nợ” ấy ám ảnh tôi, day dứt không
nguôi, những lúc chưa “đủ duyên” để trở về. Bạn có tin rằng, trong nhiều đêm,
tôi đã mơ thấy Tuy Hòa chập chờn trong giấc ngủ chăng? Tuy Hòa êm đềm, quyến
rũ, đã thầm gọi trong tôi qua bao tháng năm xuôi ngược, gian khó (Phú Yên
dễ ở, khó về).
Truyện ngắn và
tiểu luận - tạp bút của Mang Viên Long như những thông điệp gởi từ trái tim của
một con người đã đi qua thăng trầm của cuộc sống, qua vùng bóng tối và ánh sáng
của đời người, để lại những giọt máu nở hoa trong cõi nhân gian quá nhiều bể dâu
nhưng cũng không ít địa đàng…
Tây Nam
bộ 17-9-2013
T.B.H
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét